GIỐNG CỦA TỪ TRONG TIẾNG VIỆT
I. TRONG TIẾNG VIỆT
CÓ 4 GIỐNG
Nam tính, nữ tính, trung tính và vô tính.
Từ trung tính là từ dùng được chung cho cả giống đực và giống
cái (giáo viên có thể là thầy giáo hoặc cô giáo, tổ tiên chỉ cả nam và nữ,
chúng tôi, chúng ta là từ nhân xưng cho cả 2 giới, “quê” có thể là “quê cha”
hay “quê mẹ”…); Vô tính là từ không mang giới tính nào (Bàn, ghế, mây, núi…)
II. GIỐNG CỦA TỪ BIỂU
HIỆN Ở NHIỀU KHÍA CẠNH
II.1. Có thể rất rõ
ràng ở hình thức, ý nghĩa nó biểu thị:
Đối với loại này, với mỗi 1 từ chỉ giống đực, thường có 1 từ
tương ứng chỉ giống cái
Ông, bố, anh, thầy,…. Rõ ràng mang giống đực
Bà, mẹ, chị, cô, …. Rõ ràng mang giống cái
II.2. Có thể thể hiện
qua thiên hướng ý nghĩa (Không biểu hiện rõ là giống nào nhưng ý nghĩa nghiêng
về 1 giống trong thói quen sử dụng):
Đối với loại này, từ gốc thường chỉ 1 giống và làm cơ sở để
tạo thành từ tương ứng chỉ giống kia.
Từ “tướng”, “giặc”, “tội phạm” không rõ ràng chỉ nam hay nữ
nhưng thường được mặc định cho giống nam, nếu muốn chỉ giống nữ, phải thêm các
từ phụ để làm rõ: “Nữ tướng” chứ không ai cần nói “Nam tướng”, “Giặc cái” chứ
không ai cần nói “giặc đực”, “nữ tội phạm” chứ không ai cần nói “nam tội phạm”
Từ “lão già” thường được mặc định chỉ đàn ông, để nói người già là phụ nữ thì
nói “bà lão”. “Lợn giống” dùng chỉ lợn đực, nói lợn cái để làm giống thì dùng từ
“Lợn sề, lợn nái”. Từ “xinh” mang nữ tính, muốn nói bé trai ưa nhìn, người ta
dùng “xinh trai”. Từ “đĩ” được dùng chỉ người đàn bà làm nghề mại dâm hoặc có
tính lẳng lơ, để chỉ đàn ông người ta dùng từ “đĩ đực”. Từ “dương” chỉ mang hàm
ý giống đực, nam tính; “thuốc bổ dương” là thuốc bồi bổ sinh lực cho đàn ông, “mày
râu” mang nam tính, chỉ giới đàn ông nói chung …
II.3. Không biểu hiện
qua bản thân từ, mà biểu hiện qua sự hài hòa của trong quan hệ với các từ phụ
khác đi kèm hay các thành phần khác trong câu.
Mặt trời, trăng không thể hiện giống, nhưng các từ đi kèm lại
mang giống đực: Ông mặt trời, ông trăng chứ không ai nói “bà mặt trời” và “bà
trăng”
“Đất” được dùng với ý nghĩa “quê hương” là từ mang giống
cái, vì người ta chỉ nói “đất mẹ” chứ không ai nói “đất cha”.
“Đường” thường vô tính nhưng có thiên hướng nữ tính, khi chỉ
con đường chính, chủ yếu, người ta nói “con đường cái” chứ không nói “con đường
bố” hay “con đường đực” (lưu ý “cái” ở đây có ý nghĩa xưa, tức là “mẹ”).
III. GIỐNG CỦA MỘT TỪ
KHÔNG PHẢI LÚC NÀO CŨNG CỐ ĐỊNH
III.1. Khác nhau theo
ngữ nghĩa
Một từ có nhiều nghĩa, với mỗi ngữ nghĩa, nó có giống khác
nhau. Chẳng hạn như từ “đất” được nêu ở trên, “đất” dùng với hàm ý một chất liệu,
vật thể thì vô tính nhưng “đất” dùng với hàm ý quê hường thì mang nữ tính (đất
mẹ) hoặc trung tính (đất tổ). Từ “thị” dùng làm đại từ nhân xưng chỉ ngôi 3 thì
mang nữ tính (tương đương với từ “y” chỉ cho nam), nhưng mang ý chỉ 1 loại trái
cây thì vô tính (Trong truyện Tấm Cám, bà lão bán nước nói: “Thị ơi thị! Thị rụng bị bà…)
III.2. Khác nhau theo
ngữ cảnh
Một từ được dùng trong bối cảnh cụ thể khác nhau (tuy cùng 1
nghĩa) nhưng mang giống khác nhau
Từ “con”, tổng quát là vô tính, nhưng “con nhỏ”, “con bé”
thì mang giống cái, dù “nhỏ” và “bé” bản thân không mang giống. “Gà”, “mèo” thì trung tính, “dao”, “xe” thì vô tính, việc
thêm vào thành “con gà”, “con mèo”, “con dao”, “con đường” không làm thay đổi
tính chất của chúng. “con gà”, “con mèo” vẫn vô tính, “con dao”, “con xe” vẫn
vô tính.
Từ “lão” cùng có nghĩa là già thì trong từ “lão nông” mang
nam tính, “lão niên” là vô tính.
III.3. Khác nhau theo
thời gian, lịch sử, sự thay đổi của điều kiện xã hội.
Sự biến đổi ở khía cạnh này, nhìn chung có thể là bất kỳ từ
giống nọ sang giống kia… Tuy nhiên, trong tiếng việt, phổ biến nhất là hiện
tương một từ nam tính trở lên trung tính, trước đây chỉ dùng chon am thì nay được
dùng rộng rãi cho cả 2 giới. Nguyên nhân chủ yếu là xu thế bình đẳng nam nữ và
vị thế người phụ nữ ngày càng được cải thiện.
Trước đây: Từ “sinh” trước đây chỉ người nam đi học, sau
này, nam nữ được học hành bình đẳng, “sinh” trở thành trung tính nên để thể hiện
giống, người ta phải nói “nam sinh”, “nữ sinh”. Từ “anh hùng” trước đây chỉ
dùng cho giống đực và muốn nói “phụ nữ tài ba” thì dùng từ “anh thư”, ngày nay
từ “anh hùng” được dùng rộng rãi cho cả hai giới. Cậu (tớ) là từ chỉ chuyên
xưng hô cho con trai, ngày nay có thể dùng rộng rãi cho cả hai giới nên nó
trung tính. Từ “bố” trước đây chỉ dùng cho người đàn ông thì ngày nay, khi hôn
nhân đồng giới ngày càng được chấp nhận, “bố” có thể dùng người cho cả người phụ
nữ đóng vai trò “đàn ông”, dẫn đến nó sẽ dần bị “trung tính hóa”.
III.4. Khác nhau ở
vùng miền, tiếng địa phương
Từ “hắn” ở miền Bắc thường chỉ Nam giới, trong khi ở miền
trung, được dùng làm ngôi thứ 3 cho cả 2 giới.
III.5. Khác nhau do dụng
ý sử dụng
Từ “thím” trước nay chỉ dùng chỉ người họ hàng là vợ của em
bố. Nhưng nay được giới trẻ dùng với ý nghĩa bông đùa cho cả đàn ông.
Từ “trăng” như trình bày ở trên, chủ yếu được xem là mang giống
được, nhưng trong nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật, được tác giả xem như giống
cái để làm nổi bật tính nữ. Chẳng hạn, trước đây có bài hát “ông trăng xuống
chơi”, gần đây có người sáng tác bài “nàng trăng của ta”. Hàn Mặc Tử trong bài “rượt
trăng” có viết: “Ta đuổi theo trăng/ Trăng
bay lả tả trên cành vàng/ Tới đây là nơi tôi được gặp nàng”.
IV. Lựa chọn và ưu
tiên giống trong sử dụng
Khi cần lấy đại diện chung cho cả hai giống, thường chọn
trung tính, nhưng có khi giống đực được ưu tiên. Chẳng hạn, trong bài “hịch xuất
quân” của Quang Trung, có câu “Đánh cho sử tri Nam Quốc anh hùng chi hữu chủ”,
đã dùng 1 từ chỉ giống đực “anh hùng” thay vì “anh thư”.
Giống đực thường được ưu tiên đứng trước giống cái: Người ta
nói “kính thưa quý ông quý bà”, “thanh niên nam nữ”, “anh chị”, “cha mẹ”,…
Khi chỉ các ý niệm mang thuộc tính giống đực như mạnh mẽ dữ
dội thường ưu tiên chọn nam tính, ý niệm mang thuộc tính giống cái dịu dàng,
nhu mì, sự sinh sản thường chọn nữ tính. Chẳng hạn khi có lấy ở trên, “Mặt
trăng” có khi goi là “ông trăng”, có khi là “nàng trăng”. Một ví dụ khác là
trong bài hát “hòn đá cô đơn” rất phổ biến trong giới học sinh sinh viên có câu
“Có chị gió bay ngang qua”. Người ta
nói “đường cái”, “máy cái” chứ không nói “đường đực”, “máy đực” vì “đường cái”
mới đẻ ra đường con, “máy cái” là máy phục vụ chế tạo ra các máy móc sản xuất.
Giống của từ được hình thành và lựa chọn do sự phổ biến
trong thực tế, tập quán sử dụng. Ví dụ từ “tướng”, “giặc đã nêu ở trên, sự hình thành giống của từ do “tướng”
và “giặc” phổ biến là nam giới nên hình thành nên thiên hướng nam tính cho
chúng.
Khi chỉ các ý niệm tốt đẹp, cao cả thường là giống đực, các
ý niệm xấu, đôi khi mang hàm ý chê bai, lăng mạ thường là giống cái. Chẳng hạn
trong chuyện dân gian hay cổ tích Việt Nam thường là “ông bụt”, “ông tiên”, “mụ
yêu tinh”, “mụ phù thủy”; người ta thường chửi “địt mẹ”, “đồ chó cái”, “đụ má”,
“chết mẹ mày đi” hơn là chọn giống đực.
Trường hợp chưa rõ giống, không xác định được giống, không
muốn đề cập đến giống thường dùng trung tính. Chẳng hạn khi cần gọi người, người
ta hay gọi “bác A, B, C ơi!” tránh chọn gọi “chú ơi!” hay “cô ơi!”. Chẳng hạn nói “Một nạn nhân đã
tử nạn”, “Cảnh sát đang truy lùng tên cướp”,…
Trường hợp cuối cùng, việc lựa chọn và sử dụng giống đôi khi
theo dụng ý riêng của người sử dụng. Ví dụ như “ông trăng”, “nàng trăng”, “thím”
đã nêu ở trên.
V. Ý nghĩa của giống
trong tiếng Việt
Ngôn ngữ phản ánh tiến trình lịch sử, văn hóa, xã hội,… Sự vận
động của ngôn ngữ thể hiện sự vận động của văn hóa xã hội, tâm lý nhận thức của
con người. Giống của từ, với tư cách một thuộc tính của ngôn ngữ cũng là yếu tố
phản ánh các phương diện ấy. Chẳng hạn Việt Nam, cũng như ngôn ngữ của nhiều đất
nước, dân tộc Á Đông khác, từng suốt thời kỳ dài trong lịch sử có tâm lý trọng
nam khinh nữ vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Nhưng nam nữ ngày càng bình đẳng, vị
thế, vai trò của người phụ nữ ngày càng được nâng cao trong xã hội. Những điều
này có thể được phản ánh rất rõ ràng qua thuộc tính giống của từ trong tiếng Việt,
cũng như sự biến đổi giống theo thời gian, sự ưu tiên lựa chọn và sử dụng giống
như đã trình bày ở trên.
Thuộc tính giống của từ ngữ, phản ánh sự đa dạng phong phú,
cái hay, cái đẹp trong ngôn ngữ từ nguồn gốc và thực tiễn sử dụng. Tại sao lại
là “gà trống (gà sống)” và “gà mái” rồi “quyết 1 trận sống mái”, chứ không phải
“gà đực”, “gà cái”, và “quyết 1 trận đực cái”. Vì “trống-mái” là từ phân biệt
giống cho các loài gia cầm, chim. Ở gia cầm thường có hiệu tượng con đực đánh,
chọi nhau. Dù ở gia súc như trâu cũng có trọi, nhưng việc chăn nuôi gia cầm phổ
biến hơn, chọi nhau ở gia cầm thường thấy hơn, nên dẫn đến nói “quyết 1 trận sống
mái”. Tại sao, cùng là các con vật nuôi phổ biến, nhưng chó mèo chỉ có đực cái,
trâu thì có trâu cái, trâu nái, lợn có lợn nái, lợn sề chứ không có lợn cái. Tại
sao lại là “cái rựa”, “đực rựa”, nhưng không có “đực dao”,… Những trường hợp cụ
thể như vậy cần những lí giải riêng và tỉ mỉ, tuy nhiên có thể thấy rằng, như
đã nói ở trên, sự phát sinh, lựa chọn và sử dụng từ gắn với những thuộc tính từ
vựng về giống khác nhau thể hiện sự đa dạng phong phú và cái hay cái đẹp của
ngôn ngữ.
Hiểu biết về giống giúp ích cho việc bảo tồn sự trong sáng của
tiếng Việt, thực hành ngôn ngữ được đúng đắn, chuẩn xác trong nói, viết và cả nghe
hiểu. Chẳng hạn, nếu không rõ “y”, mang giống được, viết về một nữ tội phạm lại
dùng “y” thay vì dùng “thị” sẽ mắc phải một lỗi hết sức kỳ cục. Đây là một lỗi
từng có trường hợp mắc phải trên các phương tiện báo đài, cũng dễ hiểu vì tội
phạm là nam giới có vẻ phổ biến hơn, dẫn đến việc dùng “y” thường thấy hơn nên
gây ra sự hiểu lầm. Hay chẳng hạn, ngày trước, nói “người phụ nữ anh hùng” thì
rất kỳ cục, nhưng ngày nay nói như vậy là bình thường, chấp nhận được.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét