祝福 – Chúc phúc 鲁迅 (Lỗ tấn)

Bản dịch của Phan Khôi
  旧历的年底毕竟最像年底,村镇上不必说,就在天空中也显出将到新年的气象来。
Mặc dầu thế nào cái cuối năm của âm lịch cũng vẫn ra về cuối năm hơn. ở giữa làng mạc không phải nói, cho đến ở trên thinh không cũng nổi bật ra cái khí tượng hầu sang năm mới. 
灰白色的沉重的晚云中间时时发出闪光,接着一声钝响,是送灶的爆竹;近处燃放的可就更强烈 了,震耳的大音还没有息,空气里已经散满了幽微的火药香。我是正在这一夜回到我的故乡鲁镇的。虽说故乡,然而已没有家,所以只得暂寓在鲁四老爷的宅子里。他是我的本家,比我长一辈,应该称之曰“四叔”,是一个讲理学的老监生。他比先前并没有什么大改变,单是老了些,但也还末留胡子,一见面是寒暄,寒暄之后说我“胖了”,说我“胖了”之后即大骂其新党。但我知道,这并非借题在骂我:因为他所骂的还是康有为。但是,谈话是总不投机的了,于是不多久,我便一个人剩在书房里。
Trong đám mây chiều trắng xám và nặng nề chốc chốc lại có nhoáng sáng, tiếp tới một tiếng đẹt, ấy là pháo đưa ông Táo về trời; nếu đót gàn thì nghe lại mạnh xẳng hơn, những tiếng đùng đùng làm ù tai còn chưa dứt, trong không khí đã lan khắp mùi thuốc pháo thầm thoảng. Chính là trong cái đêm ấy tôi về đến Lỗ Trấn, làng quê của tôi. Nói rằng làng quê, nhưng thật ra tôi đã không có nhà ở đó, cho nên phải tạm trọ trong nhà ông cụ Tư. Ông cụ, người trong họ tôi, theo thế thứ, lớn hơn tôi một bậc, đáng lẽ tôi phải gọi bằng "chú Tư", là một vị cựu giám sinh theo phái lý học. Ông ta so với trước kia chẳng có thay đổi gì mấy, chỉ già thêm một ít, song le còn chưa để râu. Thấy tôi, ông liền hỏi thăm sức khỏe; sau khi hỏi thăm sức khỏe rồi ông nói tôi "mập ra"; sau khi nói tôi mập ra rồi ông liền chửi bọn tân đảng. Nhưng tôi biết rằng đó không phải là ông chửi cạnh chửi khóe tôi: vì cái kẻ ông chửi vẫn còn là Khương Hữu Vi. Có điều, câu chuyện thế nào cũng không ăn nhịp nhau, bởi vậy chẳng bao lâu, chỉ lưu lại trơ trọi một người là tôi ở trong phòng sách.

  第二天我起得很迟,午饭之后,出去看了几个本家和朋友;第三天也照样。他们也都没有什么大改变,单是老了些;家中却一律忙,都在准备着“祝福”。这是
鲁镇年终的大典,致敬尽礼,迎接福神,拜求来年一年中的好运气的。杀鸡,宰鹅,买猪肉,用心细细的洗,女人的臂膊都在水里浸得通红,有的还带着绞丝银镯子。煮熟之后,横七竖八的插些筷子在这类东西上,可就称为“福礼”了,五更天陈列起来,并且点上香烛,恭请福神们来享用,拜的却只限于男人,拜完自然仍然是放爆竹。年年如此,家家如此,——只要买得起福礼和爆竹之类的——今年自然也如此。天色愈阴暗了,下午竟下起雪来,雪花大的有梅花那么大,满天飞舞,夹着烟霭和忙碌的气色,将鲁镇乱成一团糟。我回到四叔的书房里时,瓦楞上已经雪白,房里也映得较光明,极分明的显出壁上挂着的朱拓的大“寿”字,陈抟老祖写的,一边的对联已经脱落,松松的卷了放在长桌上,一边的还在,道是“事理通达心气和平”。我又无聊赖的到窗下的案头去一翻,只见一堆似乎未必完全的《康熙字典》,一部《近思录集注》和一部《四书衬》。无论如何、我明天决计要走了。
Ngày hôm sau tôi trỗi dậy rất trễ. Sau bữa cơm trưa, tôi đi thăm mấy người bà con và bạn bè. Ngày hôm sau nữa cũng thế. Họ thảy đều chẳng có thay đổi gì mấy, chỉ già thêm một ít; nhưng nhà nào cũng bận rộn, đều đương sắm sửa lễ "chúc phước". Lễ này là lễ lớn cuối năm ở Lỗ Trấn, bày biện lễ phẩm, đón rước các vị phúc thần, khấn cầu sự may mắn cả một năm cho năm mới. Họ giết gà, làm thịt ngỗng, mua thịt lợn, cẩn thận rửa từng tí, những cánh tay của đàn bà đều đầm trong nước ửng đỏ lên, có cái còn đeo neo bạc. Sau khi nấu chín các vật ấy, bừa bãi giặt những chiếc đũa lên trên, thế gọi là "phước lễ" dó. Hồi canh năm bưng đặt lên bàn, thắp hương, thắp đèn, cung thỉnh các vị phúc thần về hâm hưởng. Chỉ có đàn ông con trai mới được cúng lạy; cúng lạy xong, vẫn cứ đốt pháo. Năm nào cũng thế, nhà nào cũng thế - miễn là sắm được phước lễ và pháo - tự nhiên năm nay cũng lại thế. Màu trời càng râm tối, buổi chiều tuyết bắt đầu sa, những hoa tuyết lớn bằng hoa mai, bay múa đầy trời, xen với khói mùa và tình hình tấp nập, làm Lỗ Trấn thành ra một vùng hỗn độn. Khi tôi về đến trong phòng sách chú tư, trên kẽ ngói đã đầy tuyết trắng; ánh sáng rọi vào trong phòng, rõ ràng thấy được bức liễn cái chữ "thọ" đập son, chữ của Trần Đoàn lão tổ viết, treo trên vách; hai bức liễn con thì một đã rơi xuống, cuốn lại phồng phồng để trên chiếc bàn dài, một thì còn treo, nó là sự lý thông đạt tâm khí hòa bình. Tôi lại chán nản đi đến cái bàn để sách bên cửa sổ lục lạo một hồi, chỉ thấy có một đống Khang Hy tự điển chưa chắc đủ trọn bộ, một bộ Cận tư lục tập chú và một bộ Tứ thư thấn. Không luận thế nào, tôi nhất định ngày mai phải đi đi thôi.
  况且,一直到昨天遇见
祥林嫂的事,也就使我不能安住。那是下午,我到镇的东头访过一个朋友,走出来,就在河边遇见她;而且见她瞪着的眼睛的视线,就知道明明是向我走来的。我这回在鲁镇所见的人们中,改变之大,可以说无过于她的了:五年前的花白的头发,即今已经全白,会不像四十上下的人;脸上瘦削丕堪,黄中带黑,而且消尽了先前悲哀的神色,仿佛是木刻似的;只有那眼珠间或一轮,还可以表示她是一个活物。她一手提着竹篮。内中一个破碗,空的;一手技着一支比她更长的竹竿,下端开了裂:她分明已经纯乎是一个乞丐了。
Thêm nữa, cứ nhớ đến chuyện gặp mụ Tường Lâm hôm qua một cái là làm tôi không thể nào ở yên được. Bấy giờ vào buổi chiều, tôi đến xóm phía đông Lỗ Trấn thăm một người bạn. Khi ra về, bắt gặp mụ bên bờ sông; vả lại thấy cặp mắt mụ đăm đăm nhìn tôi, biết rằng mụ thấy tôi mà cố ý đón để gặp. Trong bao nhiêu người tôi đã thấy lần này ở Lỗ Trấn, người thay đổi nhiều hơn cả, có thể nói không ai bằng mụ: cái đầu hoa râm năm năm về trước, bây giờ đã bạc phau, không còn ra vẻ người trên dưới bốn mươi nữa; cái mặt gầy tóp, vàng mà đen, đến nỗi mất cả cái dáng bộ buồn rầu trước kia, hình như là con người gỗ; chỉ có đôi tròng con mắt thỉnh thoảng luân qua luân lại, còn có thể tỏ ra mụ là một vật sống mà thôi. Mụ một tay xách cái giỏ bằng tre, trong đó một cái bát mẻ không đựng gì cả; một tay cầm một cành tre dài hơn người mụ, đầu dưới đã nứt ra: rõ ràng là một kẻ ăn mày trăm phần trăm.
  我就站住,豫备她来讨钱。Tôi đứng dừng lại, sẵn sàng chờ mụ đến xin tiền.
  “你回来了?”她先这样问。"Thưa ông đã về?" Mụ chào hỏi trước.
  “是的。”"Phải".
  “这正好。你是识字的,又是出门人,见识得多。我正要问你一件事”她那没有精 采的眼睛忽然发光了。"Thế thì tốt lắm. Ông có học, lại là người đi ra, thấy biết được nhiều. Tôi muốn hỏi ông một việc..." Cặp mắt không có tinh thần của mụ bỗng dưng nẩy sáng ra.
  我万料不到她却说出这样的话来,诧异的站着。Tôi tuyệt nhiên không ngờ đến mụ lại nói được những lời như thế, sững sờ đứng im.
  “就是——”她走近两步,放低了声音,极秘密似的切切的说,“一个人死了之后,究竟有没有魂灵的?”"ấy là..." Mụ nhích gần lại hai bước, hạ giọng khe khẽ, nói thì thầm như là chuyện rất bí mật, "sau khi một con người chết rồi, thực ra còn có linh hồn hay là không có?"
  我很悚然,一见她的眼钉着我的,背上也就遭了芒刺一般,比在学校里遇到不及豫防的临时考,教师又偏是站在身旁的时候,惶急得多了。对于魂灵的有无,我自己是向来毫不介意的;但在此刻,怎样回答她好呢?我在极短期的踌躇中,想,这里的人照例相信鬼,“然而她,却疑惑了,——或者不如说希望:希望其有,又希望其无……,人何必增添
末路的人的苦恼,一为她起见,不如说有罢。Bấy giờ tôi đờ người ra, thấy mụ nhìn giắt mắt vào mình, trên lưng tôi như phải gai chích, lúng túng còn hơn khi ở trong trường học gặp sự hạch hỏi thình lình, không kịp ngừa trước, thầy giáo lại đứng bên cạnh mình. Về sự có linh hồn hay không, chính mình tôi thuở nay không hề để ý đến; song le ở giờ phút này, nên trả lời mụ thế nào cho ổn đây? Tôi ngần ngừ trong giây lát, nghĩ ngay ra rằng người miền này đều tin có ma, mà mụ lại ngờ vực, - thế thì có lẽ nói hy vọng là hơn: hy vọng rằng có, lại hy vọng rằng không có... Nhưng mà mình sao lại đệm thêm sự khổ não cho con người cùng đường làm chi; muốn được việc cho mụ, chi bằng nói quách đi rằng có. Thế rồi tôi trả lời cách nửa nạc nửa mỡ:
  “也许有罢,——我想。”我于是吞吞吐虹的说。"Theo tôi tưởng, cũng có lẽ có đấy."
  “那么,也就有地狱了?”"Vậy thì, cũng phải có địa ngục chứ?"
  “啊!地狱?”我很吃惊,只得支吾者,“地狱?——论理,就该也有。然而也未必,……谁来管这等事……。”"à, địa ngục à?" Tôi rất bối rối, chỉ có việc chống chỏi: "Địa ngục à? - Theo lẽ, cũng phải có. - Nhưng mà chưa chắc... ai lại đi để ý đến những việc như thế!..."
  “那么,死掉的一家的人,都能见面的?”"Vậy thì, những người cùng trong một nhà chết đi có thể gặp mặt nhau chứ?"
  “唉唉,见面不见面呢?……”这时我已知道自己也还是完全一个愚人,什么踌躇,什么计画,都挡不住三句问,我即刻胆怯起来了,便想全翻过先前的话来,“那是,……实在,我说不清……。其实,究竟有没有魂灵,我也说不清。”"ờ ờ, gặp mặt hay là chẳng gặp mặt ư?" Khi ấy tôi đã biết mình còn là một người ngu trọn vẹn, ngần ngừ thế nào, tính toán thế nào, cũng không đương nổi ba câu hỏi ấy. Tức thì tôi đâm ra rè rụt, định xí xóa cả bao nhiêu câu trả lời trước kia: "Điều đó... thật ra thì tôi không nói dứt khoát được... Sự thật, có linh hồn hay không có, tôi cũng không nói dứt khoát được."
  我乘她不再紧接的问,迈开步便走,勿勿的逃回
四叔的家中,心里很觉得不安逸。自己想,我这答话怕于她有些危险。她大约因为在别人的祝福时候,感到自身的寂寞了,然而会不会含有别的什么意思的呢?——或者是有了什么豫感了?倘有别的意思,又因此发生别的事,则我的答活委实该负若干的责任……。但随后也就自笑,觉得偶尔的事,本没有什么深意义,而我偏要细细推敲,正无怪教育家要说是生着神经病;而况明明说过“说不清”,已经推翻了答话的全局,即使发生什么事,于我也毫无关系了。
Tôi thừa lúc mụ không hỏi dồn nữa, tháo bước ra đi, vội vàng trốn về trong nhà chú Tư, thấy lòng mình rất không yên ổn. Cứ nghĩ bụng, mình trả lời như thế e có điều nguy hiểm cho mụ chăng. Chừng như mụ vì gặp lúc nhà người ta chúc phước, cảm thấy riêng thân mình bơ vơ hiu quạnh, nhưng cũng có thể giấu trong câu hỏi cái ý gì khác nữa chăng? Hoặc là mụ đã có linh cảm thế nào rồi? Ví phỏng mụ có ý gì khác, lại nhân đó xảy ra việc gì khác, thì những câu trả lời của tôi ắt phải có chịu trách nhiệm một phần nào... Song le, liền đó tôi cũng bật cười cho mình, việc là việc tình cờ, vốn chẳng có ý nghĩa gì sâu sắc cả, mà mình lại cứ nắn nót mãi ra, hèn chi có nhà giáo dục bảo là đau thần kinh bệnh[1]; huống chi đã nói phân minh rằng "tôi không nói dứt khoát được", đã xí xóa cả bấy nhiêu câu trả lời, thế thì dầu có xảy ra việc gì, cũng chẳng mảy may dính dấp đến tôi.
  “说不清”是一句极有用的话。不更事的勇敢的少年,往往敢于给人解决疑问,选定医生,万一结果不佳,大抵反成了怨府,然而一用这说不清来作结束,便事事逍遥自在了。我在这时,更感到这一句话的必要,即使和讨饭的女人说话,也是万不可省的。
"Không nói dứt khoát được", thật là một câu nói rất hữu dụng. Có những kẻ thiếu niên hăng hái chưa từng trải việc đời, thường hay bạo gan giải quyết sự nghi ngờ, chọn lấy thầy thuốc cho người khác, rủi ra không được kết quả tốt, trở chuốc lấy oán vào mình; nhưng khi đã dùng câu "không nói dứt khoát được" làm kết luận, thì bao giờ mình cũng thoát nợ cả. Lúc bấy giờ, tôi càng cảm thấy câu ấy là rất cần dùng, dầu cho khi nói chuyện với một mụ ăn mày cũng không lấy lẽ gì mà vứt bỏ đi được.
  但是我总觉得不安,过了一夜,也仍然时时记忆起来,仿佛怀着什么不祥的豫感,在阴沉的雪天里,在无聊的书房里,这不安愈加强烈了。不如走罢,明天进城去。福兴楼的请墩鱼翅,一元一大盘,价廉物美,现在不知增价了否?往日同游的朋友,虽然已经云散,然而鱼翅是不可不吃的,即使只有我一个……。无论如何,我明天决计要走了。
Song le thế nào tôi cũng không yên tâm; qua một đêm rồi, cũng vẫn cứ chốc chốc lại nhớ đến, hình như có một thứ linh cảm báo hiệu chẳng lành; ở dưới trời tuyết âm thầm, trong phòng sách chán nản, cái sự không yên tâm lại càng thêm dữ dội. Thôi, chi bằng đi là hơn, sáng mai đi vào thành đi. Món vây thả của Phúc Hưng lâu cứ một đồng một bát lớn, ngon mà rẻ, hiện giờ chẳng biết có lên giá chăng? Các bạn cùng đi chơi ngày trước tuy đã mỗi người một nơi nhưng mà món vây thả phải ăn mới được, dầu chỉ độc có một mình tôi cũng vậy... Không luận thế nào, tôi nhất định ngày mai phải đi đi thôi.

  我因为常见些但愿不如所料,以为未毕竟如所料的事,却每每恰如所料的起来,所以很恐怕这事也一律。果然,特别的情形开始了。傍晚,我竟听到有些人聚在内室里谈话,仿佛议论什么事似的,但不一会,说话声也就止了,只有四叔且走而且高声的说:
Tôi nhân vì thường thấy ít nhiều việc mình không muốn xảy ra như mình đoán, cho rằng chưa chắc xảy ra như mình đoán, lại cứ hay xảy ra như mình đoán, cho nên rất lo âu cho cái việc này rồi cũng thế. Thì quả thế, cái tình hình đặc biệt đã bắt đầu. Xế chiều, tôi nghe có mấy người nói chuyện ở nhà trong, giống như bàn tán việc gì ấy, một chốc tiếng trò chuyện cũng bặt, chỉ có chú Tư vừa đi vừa nói to rằng:
  “不早不迟,偏偏要在这时候——这就可见是一个谬种!”"Chẳng sớm chẳng muộn, lại nhè chính vào giữa lúc này, - thế đủ biết nó là đồ tầm bậy!"
  我先是诧异,接着是很不安,似乎这话于我有关系。试望门外,谁也没有。好容易待到晚饭前他们的短工来冲茶,我才得了打听消息的机会。
Tôi trước còn lấy làm lạ, sau thấy rất không yên tâm, hình như câu nói đó có dính dấp tới mình. Trông ra ngoài cửa, không có ai hết. Vơ vẩn chờ đến trước bữa cơm tối, người làm trong nhà đến chế trà, tôi mới có dịp tìm nghe được tin tức.
  “刚才,四老爷和谁生气呢?”我问。"Vừa rồi cụ Tư gắt ai thế nhỉ?" Tôi hỏi.
  “还不是和样林嫂?”那短工简捷的说。"Mụ Tường Lâm chứ còn ai?" Người ấy trả lời thon lỏn.
  “
祥林嫂?怎么了?”我又赶紧的问。"Mụ Tường Lâm à? Vì lẽ gì thế?" Tôi lại hỏi dồn.
  “了。”"Chết rồi."
  “死了?”我的心突然紧缩,几乎跳起来,脸上大约也变了色,但他始终没有抬头,所以全不觉。我也就镇定了自己,接着问:
"Chết rồi?" - Quả tim tôi vụt se lại, gần như muốn đập mạnh,sắc mặt chừng cũng tái đi, có điều người kia không hề ngước đầu lên, cho nên trọn không thấy. Tôi cũng liền làm tỉnh, hỏi tiếp:
  “什么时候死的?”"Chết vào lúc nào thế?"
  “什么时候?——昨天夜里,或者就是今天罢。——我说不清。”"Lúc nào? - Đêm qua hay sáng nay gì đó. - Tôi không nói dứt khoát được."
  “怎么死的?”"Vì lẽ gì mụ chết?"
  “怎么死的?——还不是穷死的?”他淡然的回答,仍然没有抬头向我看,出去了。"Vì lẽ gì? - Cùng quá đi thì chết, chứ còn vì lẽ gì?" Hắn lạnh nhạt trả lời, vẫn cứ không ngước đầu nhìn tôi, đi ra.
  然而我的惊惶却不过暂时的事,随着就觉得要来的事,已经过去,并不必仰仗我自己的“说不清”和他之所谓“穷死的”的宽慰,心地已经渐渐轻松;不过偶然之间,还似乎有些负疚。晚饭摆出来了,四叔俨然的陪着。我也还想打听些关于祥林嫂的消息,但知道他虽然读过“鬼神者二气之良能也”,而忌讳仍然极多,当临近祝福时候,是万不可提起死亡疾病之类的话的,倘不得已,就该用一种替代的隐语,可惜我又不知道,因此屡次想问,而终于中止了。我从他俨然的脸色上,又忽而疑他正以为我不早不迟,偏要在这时候来打搅他,也是一个谬种,便立刻告诉他明天要离开鲁镇,进城去,趁早放宽了他的心。他也不很留。这佯闷闷的吃完了一餐饭。
Nhưng mà sự kinh hãi của tôi chẳng qua chỉ trong giây lát, sau thấy cái việc phải đến thì đã qua rồi, cũng không cần nhờ những câu "không nói dứt khoát được" của tôi và "cùng quá thì chết" của người kia làm yên ủi mà cõi lòng đã dần dần nhẹ nhõm; chỉ trong lúc tình cờ còn thấy như bị cắn rứt ít nhiều. Cơm tối dọn ra, chú Tư nghiêm nghị ngồi tiếp. Tôi cũng còn muốn gợi nghe tin tức về mụ Tường Lâm, song biết rằng ông ta tuy đã đọc qua câu "quỷ thần là lương năng của hai khí"[2] nhưng vẫn còn kiêng kị rất nhiều; trong khi gần làm lễ chúc phước rất không nên đem những chuyện đau ốm chết chóc ra mà nói; nếu cực chẳng đã, phải dùng một thứ tiếng lóng, tiếc tôi lại không biết, vì vậy nhiều lần toan hỏi lại thôi. Tôi dò ở sắc mặt nghiêm nghị của ông, lại đâm ngờ rằng ông cho tôi chẳng sớm chẳng muộn, nhè chính vào lúc này đến khuấy rầy ông, cũng là đồ tầm bậy, bèn lập tức xin kiếu ông ngày mai tôi sẽ rời Lỗ Trấn, đi vào thành, để lòng ông sớm được khoăn khoái. Ông cũng không cầm hẳn, cứ tẻ ngắt như thế ăn xong một bữa cơm.
  冬季日短,又是雪天,夜色早已笼罩了全市镇。人们都在灯下匆忙,但窗外很寂静。雪花落在积得厚厚的雪褥上面,听去似乎瑟瑟有声,使人更加感得沉寂。我独坐在发出
黄光油灯下,想,这百无聊赖的祥林嫂,被人们弃在尘芥堆中的,看得厌倦了的陈旧的玩物先前还将形骸露在尘芥里,从活得有趣的人们看来,恐怕要怪讶她何以还要存在,现在总算被无常打扫得于干净净了。魂灵的有无,我不知道;然而在现世,则无聊生者不生,即使厌见者不见,为人为己,也还都不错。我静听着窗外似乎瑟瑟作响的雪花声,一面想,反而渐渐的舒畅起来。
Mùa đông ngày ngắn, lại là trời tuyết, cái màn đêm vội đã che phủ cả thị trấn. Mọi người đều bận rộn ở dưới đèn, nhưng ngoài cửa sổ rất lặng lẽ. Những hoa tuyết, sa trên đệm tuyết khá dày, nghe như có tiếng tách tách, khiến người cảm thấy sự lặng lẽ càng hơn. Tôi một mình ngồi dưới ngọn đèn dầu lạc trỗ ánh sáng vàng, nghĩ rằng cái mụ Tường Lâm cầu bơ cầu bất kia, là kẻ bị mọi người hất hủi trong đống bụi rác, là một thứ đồ chơi cũ kỹ xem đã chán, trước còn lộ hình trong bụi rác, thì dưới mắt những người sống sung sống sướng chắc lấy làm quái sao mụ cứ còn mãi, mà bây giờ thì cũng kể được là đã bị thần chết quét dọn sạch sẽ đi rồi đấy. Linh hồn có hay không, tôi không biết; nhưng mà bây giờ đây thì kẻ không thể sống không sống nữa, để cho kẻ không muốn thấy không thấy nữa, thật cũng là được việc cho cả người lẫn mình. Tôi lắng nghe tiếng hoa tuyết hình như kêu tách tách ngoài cửa sổ, vừa nghe vừa nghĩ ngợi, dần dần trở thấy trong người thư thái hẳn.
  然而先前所见所闻的她的半生事迹的
断片,至此也联成一片了。
Song le, những mảnh vụn sự tích về nửa đời người của mụ mà tôi đã thấy và nghe được trước kia, đến đây cũng liền lại, thành ra nguyên một tấm.
  她不是鲁镇人。有一年的冬初,四叔家里要换女工,做中人的卫老婆子带她进来了,头上扎着白头绳,乌裙,蓝夹袄,月白背心,年纪大约二十六七,脸色青黄,但两颊却还是红的。卫老婆子叫她祥林嫂,说是自己母家的邻舍,死了当家人,所以出来做工了。四叔皱了皱眉,四婶已经知道了他的意思,是在讨厌她是一个寡妇。但是她模样还周正,手脚都壮大,又只是顺着限,不开一句口,很像一个安分耐劳的人,便不管四叔的皱眉,将她留下了。试工期内,她整天的做,似乎闲着就无聊,又有力,简直抵得过一个男子,所以第三天就定局,每月工钱五百文。
Mụ Tường Lâm không phải người Lỗ Trấn. Có một năm, đầu mùa đông, trong nhà chú Tư muốn thay đứa ở gái, người mối là bà Vệ già đưa mụ đến: đầu vấn cái dây trắng, quần đen, áo cộc kép màu chàm, ngoài phủ áo lá mùa xanh non, tuổi chừng hâm sáu hâm bảy, sắc mặt vàng xanh nhưng hai gò má còn đỏ. Bà Vệ già gọi mụ là mụ Tường Lâm, nói là hàng xóm của nhà mẹ mình, chết mất người đàn ông, cho nên ra đi ở mướn. Chú Tư cau mày. Thím Tư biết ngay ý chồng ghét mụ là một mụ góa. Song le thấy mụ dáng dấp cũng hẳn hoi, tay chân đều vạm vỡ, lại chỉ nhìn xuống, chẳng nói một câu, rõ ra là một người yên phận và chịu khó, bèn bất chấp cái cau mày của chú Tư, để mụ ở lại. Trong kỳ ở thử, mụ làm việc cả ngày, hình như hở tay ra thì buồn, lại có sức, chẳng khác một anh trai tráng, vì vậy ngày thứ ba liền dứt giá, mỗi tháng năm quan tiền công.
  大家都叫她祥林嫂;没问她姓什么,但中人是卫家山人,既说是邻居,那大概也就姓卫了。她不很爱说话,别人问了才回答,答的也不多。直到十几天之后,这才陆续的知道她家里还有严厉的婆婆,一个
小叔子,十多岁,能打柴了;她是春天没了丈夫的;他本来也打柴为生,比她小十岁:大家所知道的就只是这一点。
Người ta đều gọi mụ là mụ Tường Lâm; chẳng hề hỏi mụ họ gì, cứ người mối là người Vệ gia sơn đã nói là hàng xóm, thế cũng cho là mụ họ Vệ đi. Mụ không thích nói chuyện lắm, có ai hỏi mới trả lời, trả lời cũng vắn tắt. Đến sau mười mấy ngày mới biết thêm rằng trong nhà mụ còn có bà mẹ chồng gay gắt, một thằng em chồng còn nhỏ mười mấy tuổi, đã đi hái củi được; mụ chết chồng vào khoảng mùa xuân, chồng mụ vốn cũng sống bằng nghề hái củi, kém mụ mười tuổi: người ta biết về mụ chỉ có thế thôi.
  日子很快的过去了,她的做工却毫没有懈,食物不论,力气是不惜的。人们都说鲁四老爷家里雇着了
女工,实在比勤快的男人还勤快。到年底,扫尘,洗地,杀鸡,宰鹅,彻夜的煮福礼,全是一人担当,竟没有添短工。然而她反满足,口角边渐渐的有了笑影,脸上也白胖了。
Ngày qua rất chóng, công việc mụ chẳng bê trễ chút nào, ăn thế nào cũng xong, làm chẳng hề dưỡng sức. Mọi người đều nói nhà ông cụ Tư thuê được đứa ở gái thật siêng năng còn hơn người trai tráng siêng năng. Đến cuối năm, quét dọn, rửa nhà, giết gà, làm thịt ngỗng, nấu "phước lễ" thâu đêm, một người gánh làm lấy cả, không phải thuê thêm người làm ngày. Vậy mà mụ lại hả hê, khóe miệng dần dần có vẻ cười, mặt cũng béo trắng ra.
  新年才过,她从河边掏米回来时,忽而失了色,说刚才远远地看见几个男人在对岸徘徊,很像夫家的堂伯,恐怕是正在寻她而来的。四婶很惊疑,打听底细,她又不说。四叔一知道,就皱一皱眉,道:

Vừa qua năm mới, khi mụ đi vo gạo ở bờ sông về, bỗng tái mặt đi, nói vừa mới trông thấy xa xa một người đàn ông đứng vơ vẩn bờ bên kia, giống người bác họ nhà chồng mụ lắm, e rằng người ấy đi đến đây cốt vì tìm mụ. Thím Tư rất nghi ngại, căn vặn đến điều, mụ lại không nói chi. Chú Tư biết được, liền cau mày một cái, nói:
  “这不好。恐怕她是逃出来的。”"Thế là không xong đấy, e nó trốn nhà mà đi đấy."
  她诚然是逃出来的,不多久,这推想就证实了。Quả mụ trốn nhà thật, chẳng bao lâu câu nói đè chừng ấy liền được chứng thực.
  此后大约十几天,大家正已渐渐忘却了先前的事,卫老婆子忽而带了一个三十多岁的女人进来了,说那是详林嫂的婆婆。那女人虽是山里人模样,然而应酬很从容,说话也能干,寒暄之后,就赔罪,说她特来叫她的儿媳回家去,因为开春事务忙,而家中只有老的和小的,人手不够了。

Sau đó chừng mười mấy ngày, người ta đang dần dần quên lửng câu chuyện trước, bà Vệ già bỗng đưa một người đàn bà ngoài năm mươi tuổi đến, nói là mẹ chồng của mụ Tường Lâm. Người đàn bà tuy có dáng bộ người miền núi, nhưng thù ứng rất thong dong, nói năng cũng hoạt bát, vài lời hàn huyên rồi xin lỗi, nói đến để bảo con dâu mình về nhà, vì đầu năm bận việc, mà trong nhà chỉ có một già một trẻ, không đủ tay làm.
  “既是她的婆婆要她回去,那有什么话可说呢。”四叔说。"Đã là bà gia nó gọi nó về, còn nói gì được nữa?" chú Tư nói.
  于是算清了工钱,一共一千七百五十文,她全存在主人家,一文也还没有用,便都交给她的婆婆。那女人又取了衣服,道过谢,出去了。其时已经是正午。

Thế rồi tính tiền công, cộng là mười bảy quan năm, mụ vốn gởi cả ở nhà chủ, không tiêu một đồng, đều đem giao giả cho mẹ chồng mụ. Người đàn bà lại lấy áo xống, cảm ơn rồi đi ra. Lúc đó đã đứng trưa.
  “阿呀,米呢?祥林嫂不是去淘米的么?……”好一会,四婶这才惊叫起来。她大约有些饿,记得午饭了。

"ối già, nào gạo đâu? Có phải mụ Tường Lâm đi vo gạo rồi chăng?" Được một lúc, thím Tư mới vùng la lên như thế. Chừng như bà ta có hơi đói bụng, nhớ đến cơm trưa.
  于是大家分头寻淘箩。她先到厨下,次到堂前,后到卧房,全不见掏箩的影子。四叔踱出门外,也不见,一直到河边,才见平平正正的放在岸上,旁边还有一株菜。

Người nhà bèn mới chia nhau đi tìm cái rổ rá. Thím Tư bước vào nhà bếp, sau lên nhà lớn, sau nữa đến trong buồng, đều không thấy bóng cái rổ rá đâu. Chú Tư dạo ra ngoài cửa ngõ, cũng không thấy, thẳng đến bờ sông, mới thấy để chững chạc trên bờ, cạnh cái rổ rá còn có một cây cải.
  看见的人报告说,河里面上午就泊了一只白篷船,篷是全盖起来的,不知道什么人在里面,但事前也没有人去理会他。待到祥林嫂出来掏米,刚刚要跪下去,那船里便突然跳出两个男人来,像是山里人,一个抱住她,一个帮着,拖进船去了。样林嫂还哭喊了几声,此后便再没有什么
声息,大约给用什么堵住了罢。接着就走上两个女人来,一个不认识,一个就是卫婆于。窥探舱里,不很分明,她像是捆了躺在船板上。
Người xem thấy, học lại rằng: Hồi chưa trưa ở bến sông có đậu một chiếc thuyền mui trắng, mui che kín cả, không biết những người nào ở trong, mà khi việc chưa xảy ra cũng chẳng ai để ý đến. Đến chừng mụ Tường Lâm ra đó vo gạo, mới vừa quỳ xuống, trong thuyền vụt nhảy ra hai người đàn ông, giống người miền núi, một người ôm xoác mụ, một người giúp tay kéo vào trong thuyền. Bấy giờ mụ Tường Lâm còn khóc la được mấy tiếng, về sau rồi không có tiếng tăm gì nữa, chừng như bị nhét gì vào mồm rồi. Rồi đó liền bước lên hai người đàn bà, một không biết mặt, còn một là bà Vệ già. Dòm xem trong khoang, thấy không rõ ràng lắm, hình như mụ bị trói để nằm trên ván thuyền thì phải.
  “可恶!然而……。”四叔说。"Khả ố! Nhưng mà..." Chú Tư nói.
  这一天是四婶自己煮中饭;他们的儿子
阿牛烧火。Cả ngày hôm ấy chính mình thím Tư nấu cơm lấy. A Ngưu, con trai của ông bà thì chụm lửa.
  午饭之后,卫老婆子又来了。Sau bữa cơm trưa, bà Vệ già lại đến.
  “可恶!”四叔说。"Khả ố!" Chú Tư nói.
  “你是什么意思?亏你还会再来见我们。”四婶洗着碗,一见面就愤愤的说,“你自己荐她来,又合伙劫她去,闹得
沸反盈天的,大家看了成个什么样子?你拿我们家里开玩笑么?”
"Thế là chị có ý gì? khá là chị còn lại đến đây thấy mặt chúng tôi." Thím Tư đang rửa bát, vừa thấy người đàn bà là hằn học nói, "Chính mình chị đưa nó đến, lại họp bè họp lũ cướp nó đi, gây nên việc sôi nổi ầm ĩ, người ta xem vào còn thành ra cái bề thế gì? Chị đem nhà chúng tôi ra làm trò đùa ư?"
  “阿呀阿呀,我真上当。我这回,就是为此特地来说说清楚的。她来求我荐地方,我那里料得到是瞒着她的婆婆的呢。对不起,四老爷,四太太。总是我老发昏不小心,对不起主顾。幸而府上是向来宽洪大量,不肯和小人计较的。这回我一定荐一个好的来折罪……。”
"ối già, ối già, thật tôi bị lừa. Chính vì điều ấy mà lần này tôi lại đến để nói cho rành mạch. Mụ ấy đến nhờ tôi kiếm chỗ làm, tôi làm thế nào liệu trước được rằng mụ đã lừa dối mẹ chồng mụ ư? Thưa cụ ông, cụ bà, tôi chịu không phải. Chỉ vì tôi già cả lú lẫn, không cẩn thận, xin chịu không phải với hai cụ. May mà gặp nhà cụ đây thuở nay vẫn rộng lượng bao dong, không thèm so hơn tính thiệt với kẻ dưới. Tôi nhất định rồi đây sẽ đưa đến một đứa đứng đắn để chuộc tội..."
  “然而……。”四叔说。"Nhưng mà..." Chú Tư nói.
  于是祥林嫂事件便告终结,不久也就忘却了。Thế rồi cái việc mụ Tường Lâm tới đó là dứt, chẳng bao lâu người ta cũng quên đứt đi.
  只有四嫂,因为后来雇用的
女工,大抵非懒即馋,或者馋而且懒,左右不如意,所以也还提起祥林嫂。每当这些时候,她往往自言自语的说,“她现在不知道怎么佯了?”意思是希望她再来。但到第二年的新正,她也就绝了望。
Duy có thím Tư nhân sau đó thuê đứa ở gái, đại khái đứa không lười thì háu ăn, hoặc có đứa đã háu ăn còn lười nữa, đăm chiêu chẳng vừa ý, cho nên cũng hay nhắc đến mụ Tường Lâm. Mỗi khi như thế, bà ta thường nói một mình rằng: "Chẳng biết bây giờ mụ ấy ra thế nào?" ý chừng là mong mụ lại đến. Song le qua cái tết năm thứ hai, bà cũng không còn mong nữa.
  新
正将尽,卫老婆子来拜年了,已经喝得醉醺醺的,自说因为回了一趟卫家山的娘家,住下几天,所以来得迟了。她们问答之间,自然就谈到祥林嫂。
Hôm tết gần hết, bà Vệ già đến mừng tuổi, đã uống say ngà ngày, nói rằng nhân có về qua nhà mẹ ở Vệ gia sơn, ở lại mấy ngày cho nên về trễ. Giữa khi trò chuyện tự nhiên họ nói đến mụ Tường Lâm.
  “她么?”卫若婆子高兴的说,“现在是交了好运了。她婆婆来抓她回去的时候,是早已许给了贺家坳的贸
老六的,所以回家之后不几天,也就装在花轿里抬去了。”
"Mụ ấy à?" Bà Vệ già cao hứng nói: "Hiện giờ thì mụ đã bước sang vận đỏ rồi. Cái lúc mẹ chồng mụ bắt mụ về, vốn đã hứa gả cho lão Hạ Sáu ở Hạ gia úc, cho nên sau khi về nhà, chẳng mấy hôm là đã bỏ vào kiệu hoa khiêng đi."
  “阿呀,这样的婆婆!……”四婶惊奇的说。"ối già, lại có thứ mẹ chồng thế kia!..." Thím Tư bài hãi nói.
  “阿呀,我的太太!你真是大户人家的太太的话。我们山里人,小户人家,这算得什么?她有
小叔子,也得娶老婆。不嫁了她,那有这一注钱来做聘礼?他的婆婆倒是精明强干的女人呵,很有打算,所以就将地嫁到里山去。倘许给本村人,财礼就不多;惟独肯嫁进深山野坳里去的女人少,所以她就到手了八十千。现在第二个儿子的媳妇也娶进了,财礼花了五十,除去办喜事的费用,还剩十多千。吓,你看,这多么好打算?……”
"ối già, cụ bà của tôi ơi! Thật là một bà cụ nhà đại gia nói có khác. Chúng tôi người miền núi, nhà dân dã, như thế có kể vào đâu? Mụ có một đứa em chồng nhỏ, cũng phải cưới vợ cho nó. Chẳng gả mụ đi, thì lấy tiền đâu cưới vợ cho thằng kia? Mẹ chồng mụ thế mà là người sáng suốt, giỏi giang đáo để, tính toán hay lắm, cho nên mới đem mụ gả về miền núi bên trong nữa. Nếu gả cho người cùng làn, của lễ chẳng được nhiều; chỉ vì ít người nữ nào chịu gả về chốn rừng sâu hóc thẳm, cho nên mẹ chồng mụ mới nhận vào tay được một trăm quan chẵn. Nay thì đứa con dâu, vợ thằng thứ hai, cũng cưới được rồi, chỉ tốn có năm chục quan của lễ, trừ tiền tiêu phí làm đám, còn thừa được mấy chục quan. Hừ, cụ xem, tính toán như thế còn hay đến nước nào?..."
  “祥林嫂竟肯依?……”"Thế mà mụ Tường Lâm dành chịu cho?..."
  “这有什么依不依。——闹是谁也总要闹一闹的,只要用绳子一捆,塞在花轿里,抬到男家,捺上
花冠拜堂,关上房门,就完事了。可是详林嫂真出格,听说那时实在闹得利害,大家还都说大约因为在念书人家做过事,所以与众不同呢。太太,我们见得多了:回头人出嫁,哭喊的也有,说要寻死觅活的也有,抬到男家闹得拜不成天地的也有,连花烛都砸了的也有。样林嫂可是异乎寻常,他们说她一路只是嚎,骂,抬到贺家坳,喉咙已经全哑了。拉出轿来,两个男人和她的小叔子使劲的捺住她也还拜不成夭地。他们一不小心,一松手,阿呀,阿弥陀佛,她就一头撞在香案角上,头上碰了一个大窟窿,鲜血直流,用了两把香灰,包上两块红布还止不住血呢。直到七手八脚的将她和男人反关在新房里,还是骂,阿呀呀,这真是……。”她摇一摇头,顺下眼睛,不说了。
"Cái đó có gì mà chịu với chẳng chịu? - Làm ồn thì ai cũng cứ làm ồn lên một trận, rồi thì lấy dây trói lại, nhét vào kiệu hoa, khiêng đến nhà trai, tròng cái mũ đàu lên, lạy họ, đóng cửa buồng lại, thế là yên việc. Thế nhưng mụ Tường Lâm thật có khác. Thấy nói lúc đó thật tình mụ làm rầy rà dữ lắm, người ta đều nói chừng là mụ ở làm việc nhà người có học cho nên không giống với người thường. Thưa cụ bà, chúng tôi thấy được nhiều rồi. Những kẻ bước đi bước nữa, khóc la có, nói đi trầm mình thắt cổ có, khiêng đến nhà trai dằn mình vật mẩy lạy không nên thân có, cho đến dụt tắt đèn động phòng đi cũng có. Nhưng mụ Tường Lâm thì thật khác hẳn người thường: họ nói mụ suốt khi đi đường chỉ việc la, chửi, khiêng đến Hạ gia úc, cuống họng đã tắt hẳn tiếng. Kéo ra khỏi kiệu, hai người đàn ông và thằng em chồng mụ cố sức kìm giữ, mụ cũng còn lạy không nên thân. Bọn họ sơ ý, nới tay ra một cái, ối già, ai di đà Phật! Mụ liền dộng đầu vào cái cạnh hương án, trên đầu thủng thành một cái hục, máu chảy dầm dề, tra cho hai nắm tàn nhang, buộc cho hai miếng vải điều mà máu còn chưa cầm nổi. Cho đến lúc xúm nhau mỗi người một tay đem mụ cùng người đàn ông nhốt trong buồng cưới, khóa trái lại, mà mụ cũng còn cứ chửi, ối già già, rõ thật là..." Bà Vệ già lắc đầu một cái, nhìn xuống không nói nốt.
  “后来怎么样呢?”四婢还问。"Sau rồi làm sao?" Thím Tư còn hỏi.
  “听说第二天也没有起来。”她抬起眼来说。"Thấy nói ngày thứ hai cũng không chỗi dậy." Bà kia ngước mắt lên trả lời.
  “后来呢?”"Sau rồi sao nữa?"
  “后来?——起来了。她到年底就生了一个孩子,男的,新年就两岁了。我在娘家这几天,就有人到贺家坳去,回来说看见他们娘儿俩,母亲也胖,儿子也胖;上头又没有婆婆,男人所有的是力气,会做活;房子是自家的。——唉唉,她真是交了好运了。”

"Sau rồi?... chỗi dậy. Cuối năm mụ sinh được một đứa bé trai, sang năm mới này nó hai tuổi. Tôi ở nhà đẻ tôi mấy hôm nay, có người ở Hạ gia úc về, nói hai mẹ con mụ mẹ tròn con vuông; bên trên lại không có mẹ chồng; người đàn ông mụ được cái sức mạnh, biết làm ăn; nhà thì ở nhà của mình. - ồ! Mụ thật đã bước sang vận đỏ rồi."
  从此之后,四婶也就不再提起祥林嫂。Đó về sau, thím Tư không nhắc đến mụ Tường Lâm nữa.
  但有一年的秋季,大约是得到祥林嫂好运的消息之后的又过了两个新年,她竟又站在四叔家的堂前了。桌上放着一个
荸荠式的圆篮,檐下一个小铺盖。她仍然头上扎着白头绳,乌裙,蓝夹祆,月白背心,脸色青黄,只是两颊上已经消失了血色,顺着眼,眼角上带些泪痕,眼光也没有先前那样精神了。而且仍然是卫老婆子领着,显出慈悲模样,絮絮的对四婶说:Song le có một mùa thu năm nọ, ước chừng sau khi được tin mụ Tường Lâm bước sang vận đỏ lại qua hai cái tết, mụ lại đã đứng ở trước nhà chú Tư rồi. Trên ghế đặt một cái giỏ tròn hình củ mã thầy, dưới thầm một bó hành lý nhỏ. Mụ vẫn đầu vấn cái dây trắng, quần đen, áo cộc kép màu chàm ngoài phủ áo lá màu xanh non, sắc mặt vàng xanh, chỉ trên hai gò má đã mất máu, nhìn xuống, trên khóe mắt có ngấn lệ, cặp mắt cũng không có tinh thần bằng trước kia. Vả lại cũng vẫn do bà Vệ già đưa đến, làm ra vẻ từ bi, lãi nhãi nói cùng thím Tư rằng:
  “……这实在是叫作‘天有不测风云’,她的男人是坚实人,谁知道年纪青青,就会断送在
伤寒上?"... Thế này thật đúng như người ta nói: Thiên hữu bất trắc phong vân! Người đàn ông mụ chắc nịch đi chứ phải, ai dè tuổi xanh hơ hớ, đau có một trận thương hàn liền chết.
本来已经好了的,吃了一碗冷饭,复发了。幸亏有儿子;她又能做,打柴摘茶
  
养蚕都来得,本来还可以守着,谁知道那孩子又会给狼衔去的呢?春天快完了,村上倒反来了狼,谁料到?现在她只剩了一个光身了。大伯来收屋,又赶她。她真是走投无路了,只好来求老主人。好在她现在已经再没有什么牵挂,太太家里又凄巧要换人,所以我就领她来。——我想,熟门熟路,比生手实在好得多……。”
Thực thì đã đỡ rồi đấy, chỉ ăn vào có một bát cơm nguội, lại hát lại. May mà có con trai; mụ lại hay lam hay làm, đốn củi, hái chè, nuôi tằm đều được cả; vốn tình có thể ở vậy lắm, ai dè thằng bé lại bị chó sói tha đi ư? Mùa xuân sắp qua rồi, chó sói còn xuống tới làng, ai ngờ đến? Hiện giờ mụ chỉ còn một mình trơ trọi. Người anh chồng đến choán lấy nhà, lại đuổi mụ đi. Mụ thật hết chỗ dung thân rồi, chỉ xin đến nhờ hai cụ. Được một cái là mụ hiện giờ không còn vướng víu gì nữa; nhà cụ đây lại vừa ưa muốn thay người làm, cho nên tôi mới đưa mụ đến. - Tôi tưởng quen nhà quen cửa, tốt hơn thuê người lạ nhiều..."
  “我真傻,真的,”祥林嫂抬起她没有神采的眼睛来,接着说。“我单知道下雪的时候野兽在山坳里没有食吃,会到村里来;我不知道春天也会有。我一清早起来就开了门,拿小篮盛了一篮豆,叫我们的
阿毛坐在门槛上剥豆去。他是很听话的,我的话句句听;他出去了。我就在屋后劈柴,掏米,米下了锅,要蒸豆。我叫阿毛,没有应,出去口看,只见豆撒得一地,没有我们的阿毛了。他是不到别家去玩的;各处去一问,果然没有。我急了,央人出去寻。直到下半天,寻来寻去寻到山坳里,看见刺柴上桂着一只他的小鞋。大家都说,糟了,怕是遭了狼了。再进去;他果然躺在草窠里,肚里的五脏已经都给吃空了,手上还紧紧的捏着那只小篮呢。……”她接着但是呜咽,说不出成句的话来。
"Tôi thật khờ, khờ quá." Mụ Tường Lâm ngước cặp mứt thất thần lên nói tiếp theo, "Tôi chỉ biết lúc sa tuyết, những thú rừng ở trong hóc núi không có gì ăn, nó mới xuống đến làng. Tôi có ngờ đâu qua mùa xuân rồi nó cũng vẫn xuống. Một buổi mai sớm, tôi dậy mở cửa, xách chiếc giỏ nhỏ đựng đầy một giỏ đậu, gọi thằng A Mao nhà tôi đem ngồi ở ngạch cửa bóc vỏ. Nó biết vâng lời lắm, tôi bảo gì nó cũng vâng. Nó đi ra. Tôi bèn ở sau nhà bổ củi, vo gạo, trút gạo vào nồi toan ghế đậu. Tôi gọi A Mao, không thấy thưa, đi ra xem, chỉ thấy đậu vung vãi trên đất, không có A Mao nhà tôi. Nó có hề đi chơi nhà khác đâu; đi hỏi mấy nơi, quả thật không có. Tôi sửng sốt, mượn người đi tìm. Cho đến xế chiều, tìm quanh quẩn đến trong hóc núi, thấy trên cành gai mắc một chiếc giầy nhỏ của nó. Người ta đều nói, thôi hỏng rồi, e bị chó sói rồi. Đi tới nữa, quả nhiên nó nằm trong đám cỏ, ruột gan trong bụng đã bị moi ăn tất cả, ở tay còn khư khư nắm lấy chiếc giỏ con..." Kế đó mụ nghẹn ngào, nói không thành câu nữa.

  四婶起刻还踌踌,待到听完她自己的话,眼圈就有些红了。她想了一想,便教拿圆篮和铺盖到下房去。卫老婆子仿佛卸了一肩重相似的嘘一口气,祥林嫂比初来时候神气舒畅些,不待指引,自己驯熟的安放了铺盖。她从此又在鲁镇做女工了。

Thím Tư ban đầu còn ngần ngừ, đến khi nghe mụ nói xong, quầng con mắt có hơi đỏ. Bà ta suy nghĩ một lát rồi bảo mụ xách cái giỏ và đồ hành lý xuống nhà dưới. Bà Vệ già hình như thoát gánh nặng thở ra một cái; còn mụ Tường Lâm dáng người hơi thư thái hơn hồi mới vào, chẳng đợi ai chỉ dẫn, tự mình nhanh nhẩu cất đồ hành lý. Từ đó mụ ở lại Lỗ Trấn làm công.
  大家仍然叫她祥林嫂。Người ta vãn gọi mụ là mụ Tường Lâm.
  然而这一回,她的境遇却改变得非常大。上工之后的两三天,主人们就觉得她手脚已没有先前一样灵活,记性也坏得多,
死尸似的脸上又整日没有笑影,四婶的口气上,已颇有些不满了。当她初到的时候,四叔虽然照例皱过眉,但鉴于向来雇用女工之难,也就并不大反对,只是暗暗地告诫四姑说,这种人虽然似乎很可怜,但是败坏风俗的,用她帮忙还可以,祭祀时候可用不着她沾手,一切饭莱,只好自已做,否则,不干不净,祖宗是不吃的。
Nhưng mà lần này, cảnh ngộ của mụ sẽ thay đổi nhiều lắm. Sau khi nhận việc vài ba hôm, những người nhà chủ đã thấy ra mụ không còn nhanh tay nhanh chân như trước, trí nhớ cũng hỏng đi nhiều, trên cái mặt như mặt ma lại cả ngày chẳng hề có dáng cười; theo giọng nói của thím Tư, đã có hơi bất mãn. Lúc mụ mới đến, chú Tư tuy cứ theo lệ cau mày, nhưng vì thấy lâu nay thuê được đứa ở gái khó lắm, nen cũng không phản đối hẳn, chỉ dặn riêng thím Tư rằng thứ người ấy ngó như là đáng thương, có điều làm bại hoại phong tục, dùng nó đỡ bận thì được, chứ khi cúng tế không nên để nó mó tay vào, mọi sự nấu nướng chính mình phải làm lấy; chẳng thế, dơ dáy bẩn thịu, ông bà ông vải chẳng ăn đâu.
  四叔家里最重大的事件是祭祀,祥林嫂先前最忙的时候也就是祭祀,这回她却清闲了。桌子放在堂中央,系上桌帏,她还记得照旧的去分配酒杯和筷子。

Việc lớn trong nhà chú Tư là việc cúng tế; mụ Tường Lâm trước kia, khi bận rộn lắm cũng vì việc cúng tế, lần này thì mụ lại rảnh tay. Cái bàn đặt giữa nhà, treo cái màn lên, mụ còn nhớ làm như hồi xưa đi sắp chén rượu và đũa.
  “祥林嫂,你放着罢!我来摆。”四婶慌忙的说。"Mụ Tường Lâm, mụ buông ra thôi! Để tôi soạn cho." Thím Tư vội vàng nói.
  她讪讪的缩了手,又去取烛台。Mụ thụt tay không kịp, lại đi lấy cái đài cắm nến.
  “祥林嫂,你放着罢!我来拿。”四婶又慌忙的说。"Mụ Tường Lâm, mụ buông ra thôi! Để tôi lấy cho." Thím Tư lại vội vàng nói.
  她转了几个圆圈,终于没有事情做,只得疑惑的走开。她在这一天可做的事是不过坐在灶下烧火。Mụ xây quanh mấy vòng, rốt lại không có việc gì làm, chỉ ngơ ngẩn đi khỏi đó. Trong một ngày ấy cái việc mụ có thể làm được chỉ là ngồi dưới bếp chụm lửa.
  镇上的人们也仍然叫她祥林嫂,但音调和先前很不同;也还和她讲话,但笑容却冷冷的了。她全不理会那些事,只是直着眼睛,和大家讲她自己日夜不忘的故事:

Mọi người ở Lỗ Trấn cũng vẫn gọi mụ là mụ Tường Lâm, nhưng cái giọng gọi không giống với trước kia. Họ cũng có nói chuyện cùng mụ, nhưng cái dáng cười đã trở nên lạnh lùng rồi. Mụ toan không để ý đến những sự ấy, cứ nhìn thẳng tới, đăm đăm kể lể với người ta cái chuyện mà chính mụ ngày đêm chẳng quên.
  “我真傻,真的,”她说,“我单知道雪天是野兽在深山里没有食吃,会到村里来;我不知道春天也会有。我一大早起来就开了门,拿小篮盛了一篮豆,叫我们的阿毛坐在门槛上剥豆去。他是很听话的孩子,我的话句句听;他就出去了。我就在屋后劈柴,淘米,米下了锅,打算蒸豆。我叫,‘阿毛!’没有应。出去一看,只见豆撒得满地,没有我们的阿毛了。各处去一向,都没有。我急了,央人去寻去。直到下半天,几个人寻到山坳里,看见刺柴上挂着一只他的小鞋。大家都说,完了,怕是遭了狼了;再进去;果然,他躺在草窠里,肚里的五脏已经都给吃空了,可怜他手里还紧紧的捏着那只小篮呢。……”她于是淌下眼泪来,声音也呜咽了。

"Tôi thật khờ, khờ quá." Mụ nói, "Tôi chỉ biết lúc sa tuyết những thú rừng ở trong hóc núi không có gì ăn, nó mới xuống đến làng, tôi có ngờ đâu qua mùa xuân rồi nó cũng vẫn xuống. Một buổi sớm mai, tôi dậy mở cưa, xách chiếc giỏ nhỏ đựng đầy một giỏ đậu, tôi gọi thằng A Mao nhà tôi đem ngồi ở ngạch cửa bóc vỏ. Tôi bèn ở sau nhà bổ củi, vo gạo, trút gạo vào nồi, toan ghế đậu. Tôi gọi: "A Mao", không thấy thưa. Đi ra xem, chỉ thấy đậu vung vãi trên đất, không có A Mao nhà tôi. Đi tìm hỏi mấy nơi, đều không có. Tôi sửng sốt, mượn người đi tìm. Cho đến xế chiều, mấy người đi tìm đến trong hóc núi, thấy trên cành gai mắc một chiếc giày nhỏ của nó. Người ta đều nói, thôi hỏng rồi, e bị chó sói rồi. Đi tới nữa, quả nhiên nó nằm trong đám cỏ, ruột gan trong bung đã bị moi ăn tất cả, thương hại trong tay nó còn khư khư nắm lấy chiếc giỏ con..." Thế rồi mụ chảy nướ mắt ra, tiếng cũng nghẹn ngào đi.
  这故事倒颇有效,男人听到这里,往往敛起笑容,没趣的走了开去;
女人们却不独宽恕了她似的,脸上立刻改换了鄙薄的神气,还要陪出许多眼泪来。有些老女人没有在街头听到她的话,便特意寻来,要听她这一段悲惨的故事。直到她说到呜咽,她们也就一齐流下那停在眼角上的眼泪,叹息一番,满足的去了,一面还纷纷的评论着。
Câu chuyện thế mà cũng có hiệu quả. Bọn đàn ông nghe đến đó, thường thường là thôi cười, tiu nghỉu bỏ đi; bọn đàn bà lại chẳng những như là tha thứ cho mụ, trên mặt còn đổi ngay cái bộ khinh bỉ, còn chảy giùm mấy dòng nước mắt. Có mấy bà già không có ở đầu đường nghe chuyện mụ, bèn cố đi tìm cho được, để mụ kể mẩu chuyện bi thảm ấy cho nghe. Khi mụ kể đến nghẹn ngào, họ thảy đều chảy những giọt nước mắt đọng ở khóe, than thở một hồi, hả hê đi trớt, vừa đi lại còn vừa bàn tán nhao nhao.

  她就只是反复的向人说她悲惨的故事,常常引住了三五个人来听她。但不久,大家也都听得纯熟了,便是最慈悲的
念佛的老太太们,眼里也再不见有一点泪的痕迹。后来全镇的人们几乎都能背诵她的话,一听到就烦厌得头痛。
Mụ dầu chỉ kể đi kể lại có ngần ấy, nó là mẩu chuyện bi thảm, cũng thường thường kéo được năm ba người đến nghe mụ. Song le chẳng bao lâu, người ta nghe đã thuộc làu, dầu cho đến các bà cụ rất từ bi hay niệm phật, khóe mắt cũng ráo hơ. Sau lại, mọi người ở vùng Lỗ Trấn đều có thể đọc trầm câu chuyện mụ, nghe qua một cái là họ chán ngán đến nhức đầu.
  “我真傻,真的,”她开首说。"Tôi thật khờ, khờ quá." Mụ bắt đầu nói.
  “是的,你是单知道雪天野兽在深山里没有食吃,才会到村里来的。”他们立即打断她的话,走开去了。"Phải, chị chỉ biết lúc sa tuyết, những thú rừng ở trong hóc núi không có gì ăn, nó mới xuống đến làng." Bọn họ lập tức cắt đứt câu chuyện của mụ, bỏ đi trớt.
  她张着口
怔怔的站着,直着眼睛看他们,接着也就走了,似乎自己也觉得没趣。但她还妄想,希图从别的事,如小篮,豆,别人的孩子上,引出她的阿毛的故事来。倘一看见两三岁的小孩子,她就说:
Mụ đứng sững há hốc miệng ra, đăm đăm nhìn bọn họ, rồi cũng bước đi, hình như chính mụ cũng thấy là vô vị. Song le, mụ còn hay nghĩ bâng quơ, mong từ những việc đâu đâu, như cái giỏ nhỏ, đậu, đứa bé của người khác, gợi ra câu chuyện thằng A Mao của mụ. Nếu thấy được đứa bé hai ba tuổi một cái, mụ sẽ nói:
  “唉唉,我们的阿毛如果还在,也就有这么大了……”"ờ, thằng A Mao nhà tôi nếu còn sống, cũng đã lớn bằng này rồi."
  孩子看见她的眼光就吃惊,牵着母亲的
衣襟催她走。于是又只剩下她一个,终于没趣的也走了,后来大家又都知道了她的脾气,只要有孩子在眼前,便似笑非笑的先问她,道:
Đứa bé thấy bộ tướng cặp mắt của mụ liền sợ hãi, níu vạt áo mẹ nó, giục đi đi. Khi ấy còn lưa lại chỉ một mình mụ, mụ cũng tiu nghỉu bỏ đi nốt. Về sau người ta lại đều biết cái dở hơi của mụ, mỗi khi có đứa bé nào ở trước mặt, họ nửa bỡn nửa thực hỏi trước mụ rằng:
  “祥林嫂,你们的阿毛如果还在,不是也就有这么大了么?”"Chị Tường Lâm nè, thằng A Mao nhà chị nếu còn sống, cũng đã lớn bằng này rồi chứ gì?"
  她未必知道她的悲哀经大家咀嚼赏鉴了许多天,早已成为
渣滓,只值得烦厌和唾弃;但从人们的笑影上,也仿佛觉得这又冷又尖,自己再没有开口的必要了。她单是一瞥他们,并不回答一句话。
Mụ chưa chắc biết rằng câu chuyện bi ai của mụ đã được người ta nhấm nháp ngấu nghiến bấy lâu nay, nó đã thành ra cặn bã, chẳng bõ chán nhàm và phỉ nhổ; nhưng theo dáng cười của mọi người, mụ cũng hơi thấy được là lạnh lùng chua chát, thôi thì mình chẳng cần còn nói nữa làm chi. Mụ chỉ liếc nhìn bọn họ một cái, không trả lời nửa câu.
  鲁镇永远是过新年,腊月二十以后就火起来了。四叔家里这回须雇男短工,还是忙不过来,另叫柳妈做帮手,杀鸡,宰鹅;然而柳妈是善女人,吃素,不杀生的,只肯洗器皿。祥林嫂除烧火之外,没有别的事,却闲着了,坐着只看柳妈洗器皿。
微雪点点的下来了。
Lỗ Trấn cứ luôn luôn bước sang năm mới, hai mươi tháng chạp về sau là bận rối lên. Trong nhà chú Tư lần này phải thuê trai làm ngày, còn chưa hết bận, gọi thêm u Liễu làm giúp: giết gà, làm thịt ngỗng. Song le, u Liễu lại là tu tại gia, ăn chay trường, không chịu sát sinh, chỉ việc rửa bát đĩa. Mụ Tường Lâm ngoài việc chụm lửa chẳng có việc gì làm, rỗi lắm, chỉ ngồi xem u Liễu rửa bát đĩa. Tuyết lớt phớt sa.
  “唉唉,我真傻,”祥林嫂看了天空,叹息着,独语似的说。"Chao ôi, tôi thật khờ!..." Mụ Tường Lâm nhìn trời than thở, như nói một mình.
  “祥林嫂,你又来了。”柳妈不耐烦的看着她的脸,说。“我问你:你额角上的伤痕,不就是那时撞坏的么?”"Chị Tường Lâm, chị lại bắt đầu rồi." U Liễu trắng trợn nhìn mặt mụ, nói. "Tôi hỏi chị: Cái sẹo trên khóe trán chị có phải bởi hồi đó động đầu mà thành ra không?"
  “晤晤。”她含胡的回答。"ờ..." mụ trả lời ấp úng.
  “我问你:你那时怎么后来竟依了呢?”"Tôi hỏi chị: Hồi đó vì lẽ gì về sau chị cũng thuận đi?"
  “我么?……”,"Tôi ấy à?..."
  “你呀。我想:这总是你自己愿意了,不然……。”"Chị nè, tôi tưởng: việc ấy cũng bởi chính mình chị đã bằng lòng rồi, chứ không thì..."
  “阿阿,你不知道他力气多么大呀。”"ồ! Chị không biết sức họ khỏe là dường nào..."
  “我不信。我不信你这么大的力气,真会拗他不过。你后来一定是自己肯了,倒推说他力气大。”"Tôi không tin, không tin chị sức khỏe như thế mà lại chống cự không nổi. Chắc chị về sau chính mình khứng chịu rồi, lại đổ tại sức họ khỏe."
  “阿阿,你……你倒自己试试着。”她笑了。"ồ, chị... Rồi chính mình chị thử xem." Mụ cười.
  柳妈的打皱的脸也笑起来,使她蹙缩得像一个核桃,干枯的小眼睛一看祥林嫂的额角,又钉住她的眼。祥林嫂似很局促了,立刻敛了笑容,旋转眼光,自去看雪花。

U Liễu cũng bật cười lên, làm lớp da nhăn trên mặt túm tíu lại như trái hồ dào. Cặp mắt nhỏ và ráo hơ của u liếc nhìn khóe trán mụ Tường Lâm một cái, rồi giắt mắt vào đó. Mụ Tường Lâm hình như rất ké né, tức thì không cười nữa, xoay chiều mắt, đứng nhìn tuyết sa.
  “祥林嫂,你实在不合算。”柳妈诡秘的说。“再一强,或者索性撞一个死,就好了。现在呢,你和你的第二个男人过活不到两年,倒落了一件大罪名。你想,你将来到阴司去,那两个
死鬼的男人还要争,你给了谁好呢?阎罗大王只好把你锯开来,分给他们。我想,这真是……”
"Chị Tường Lâm, thực ra thì chị tính không gọn." U Liễu lại bắt đầu nói thả ví. "Cứ làm già nữa, hay là văng mạnh động đầu đến chết đi một cái, chẳng đã xong rồi. Bây giờ đây, chị cùng người chồng của chị ở với nhau chưa đầy hai năm, trở mắc phải một cái tội lớn. Chị nghĩ xem, về sau chị xuống đến âm phủ, hai con ma đàn ông ấy còn phải giành nhau, chị sẽ về tay ai cho ổn ư? Vua Diêm La chỉ có đem chị cưa hai ra, cho mỗi đằng một nửa. Tôi nghĩ thật là..."

  她脸上就显出恐怖的神色来,这是在山村里所未曾知道的。Trên mặt mụ liền hiện ra vẻ sợ hĩ, điều ấy ở trong làng rừng thật chưa hề biết đến.

  “我想,你不如及早抵当。你到
土地庙里去捐一条门槛,当作你的替身,给千人踏,万人跨,赎了这一世的罪名,免得死了去受苦。”"Tôi nghĩ, chi bằng chị kíp tính cách đền bù đi. Chị hãy đến trong miếu thổ địa quyên cúng một cái ngạch cửa sau, coi là cái thân chị đấy, để cho ngàn người xéo lên, muôn người bước qua, chuộc cái tội của một đời người, ngõ khỏi phải chịu khổ hình sau khi chết."
  她当时并不回答什么话,但大约非常苦闷了,第二天早上起来的时候,两眼上便都围着大黑圈。早饭之后,她便到镇的西头的
土地庙里去求捐门槛,庙祝起初执意不允许,直到她急得流泪,才勉强答应了。价目是大钱十二千。
Mụ bấy giờ cũng chẳng trả lời ra làm sao, song chừng là buồn rầu quá đỗi. Sáng hôm sau chỗi dậy, trên đôi con mắt vầy hai cái quầng đen to tướng. Ăn cơm sáng xong, mụ bèn đi đến cái miếu thổ địa ở xóm tây Lỗ Trấn quyên cúng một ái ngạch cửa. Lão từ ban đầu còn làm dày chẳng khứng cho; mụ van thiết đến chảy nước mắt, mới gắng gượng nhận lời. Giá cái ngạch là mười hai đồng bạc.
她久已不和人们交口,因为阿毛的故事是早被大家厌弃了的;但自从和柳妈谈了天,似乎又即传扬开去,许多人都发生了新趣味,又来逗她说话了。至于题目,那自然是换了一个新样,专在她额上的伤疤。
Mụ từ lâu không nói chuyện với ai được, vì câu chuyện thằng A Mao đã bị người ta chán phè rồi; nhưng từ khi trò chuyện với u Liễu, hình như lại đồn đại ra, bao nhiêu người nảy ra một cái thú vị mới, lại tìm đến mụ gạ chuyện. Đến như đầu đề, tự nhiên là đổi một mẩu mới, băm vào cái sẹo ở trên trán mụ kia.
  “祥林嫂,我问你:你那时怎么竟肯了?”一个说。"Chị Tường Lâm! Tôi hỏi chị, lúc đó vì lẽ gì sau lại chị cũng chịu quách?" Một người nói thế.
  “唉,可惜,白撞了这-下。”一个看着她的疤,应和道。"ờ, đáng tiếc thật, động đầu một cái toi." Người khác nhìn cái sẹo mụ, phụ họa theo.
  她大约从他们的笑容和声调上,也知道是在嘲笑她,所以总是瞪着眼睛,不说一句话,后来连头也不回了。她整日紧闭了嘴唇,头上带着大家以为耻辱的记号的那伤痕,默默的跑街,扫地,洗莱,淘米。快够一年,她才从四婶手里支取了历来积存的工钱,换算了十二元
鹰洋,请假到镇的西头去。但不到一顿饭时候,她便回来,神气很舒畅,眼光也分外有神,高兴似的对四婶说,自己已经在土地庙捐了门槛了。
Mụ cứ ở dán cười giọng nói của bọn họ, chừng cũng biết là đang chế nhạo mình, nên chi chỉ cứ trừng mắt, chẳng nói một lời, sau đến không quay đầu lại nữa. Mụ cả ngày ngậm chặt mồm, trên đầu đeo mãi cái sẹo mà người ta cho là cái dấu hiệu nhơ nhuốc, cứ lẳng lặng đi đường phố, quét nhà, rửa rau, vo gạo. Vừa đầy một năm, mụ mới nhận lấy ở tay thím Tư món tiền công bấy lâu còn gửi lại, đổi lấy mười hai đồng bạc, xin phép đi đến xóm tây Lỗ Trấn. Chưa đến ăn xong bữa cơm, mụ đã trở về, sắc mặt rất tươi tỉnh, mắt cũng sáng lên, nói với thím Tư như tuồng đắc ý lắm, rằng mình đã quyên cúng cái ngạch cửa ở miếu thổ địa rồi.
  冬至的祭祖时节,她做得更出力,看四婶装好
祭品,和阿牛将桌子抬到堂屋中央,她便坦然的去拿酒杯和筷子。
Sang đông chí, ngày tế tổ, mụ ra sức làm việc. Thấy thím Tư soạn sửa cúng xong, cùng A Ngưu khiêng cái bàn đến giữa nhà, mụ liền quày quả đi lây chén rượu và đũa.
  “你放着罢,祥林嫂!”四婶慌忙大声说。"Mụ buông ra thôi, mụ Tường Lâm!" Thím Tư lại giật giọng nói.
  她像是受了
炮烙似的缩手,脸色同时变作灰黑,也不再去取烛台,只是失神的站着。直到四叔上香的时候,教她走开,她才走开。这一回她的变化非常大,第二天,不但眼睛窈陷下去,连精神也更不济了。而且很胆怯,不独怕暗夜,怕黑影,即使看见人,虽是自己的主人,也总惴惴的,有如在白天出穴游行的小鼠,否则呆坐着,直是一个木偶人。不半年,头发也花白起来了,记性尤其坏,甚而至于常常忘却了去掏米。
Mụ thụt tay lại như là bị bỏng, tức thì sắc mặt đổi ra đen xám, cũng chẳng đi lấy đài cắm nến nữa, chỉ đứng sững thất thần. Cho đến lúc chú Tư thượng hương, bảo mụ đi, mụ mới đi. Lần này mụ thay đổi hơn lần nào cả: ngày hôm sau, chẳng những mắt sâu vào, đến cả tinh thần cũng càng kém. Lại thêm nhát gan quá, chẳng những sợ đêm tối, sợ bóng đen, đến thấy người ta, dầu người chủ mình, cũng nơm nớp chẳng khác con chuột nhắt đi ra khỏi hang giữa ban ngày. Chẳng thế thì ngồi đực ra như con người gỗ. Không tới nửa năm, tóc cũng bắt đầu bạc hoa râm, trí nhớ đến hỏng, rất đỗi thường thường quên lửng đi vo gạo.
  “祥林嫂怎么这样了?倒不如那时不留她。”四婶有时当面就这样说,似乎是警告她。"Mụ Tường Lâm ra làm sao ấy, biết vậy hồi đó không để mụ ở lại mà hơn." Thím Tư có lúc đã nói như thế trước mặt mụ hình như muốn cảnh cáo.
  然而她总如此,全不见有伶俐起来的希望。他们于是想打发她走了,教她回到卫老婆于那里去。但当我还在鲁镇的时候,不过单是这样说;看现在的情状,可见后来终于实行了。然而她是从四叔家出去就成了乞丐的呢,还是先到卫老婆子家然后再成乞丐的呢?那我可不知道。

Nhưng mà mụ vẫn cứ thế, không còn mong gì lanh lợi hơn lên. Bấy giờ họ mới tính cho mụ ra, bảo mụ về với bà Vệ già. Song le, đang lúc tôi còn ở Lỗ Trấn, họ chỉ nói thế thôi; mà xem như tình trạng hiện giờ, biết rằng sau lại đã thực hành điều ấy. Tuy vậy, mụ trở nên ân mỳ ngay khi ra khỏi nhà chú Tư, hay là trước đến nhà bà Vệ già rồi sau mới đi ăn mày thì tôi không biết.
  我给那些因为在近旁而极响的爆竹声惊醒,看见豆一般大的黄色的灯火光,接着又听得毕毕剥剥的鞭炮,是四叔家正在“祝福”了;知道已是五更将近时候。我在蒙胧中,又隐约听到远处的爆竹声联绵不断,似乎合成一
天音响的浓云,夹着团团飞舞的雪花,拥抱了全市镇。我在这繁响的拥抱中,也懒散而且舒适,从白天以至初夜的疑虑,全给祝福的空气一扫而空了,只觉得天地圣众歆享了牲醴和香烟,都醉醺醺的在空中蹒跚,豫备给鲁镇的人们以无限的幸福。
Tôi bị những tiếng pháo đốt gần nổ rất to đánh thức, thấy ngọn đèn sáng vàng bằng hột đậu, kế đó lại nghe pháo tràng rẹt rẹt, ấy là nhà chú Tư đang làm lễ "chúc phước", biết rằng đã sang canh năm rồi. Trong mơ màng, tôi lại mường tượng nghe những tiếng pháo xa xa liên miên chẳng dứt, như họp lại thành đám mây đặc có tiếng vang giậy trời, cùng với hoa tuyết quây quần bay múa, ôm ấp cả một thị trấn. Tôi ở trong sự ôm ấp xôn xao ấy cũng thấy phờ người ra mà khoăn khoái, bao nhiêu sự lo ngại từ ban ngày đến hồi đầu hôm đều nhờ cái không khí chúc phước quét sạch cả, chỉ cảm thấy trời đất quỷ thần đã hâm hưởng những rượu thịt và hương khói, đều say gật gù đi khệnh khạng giữa khoảng không, sẵn sàng ban phát cho mọi người ở Lỗ Trấn những hạnh phúc vô ngần.
一九二四年二月七日 (Tháng 7 năm 1942)
Chú thích cuối trang
1.    Lỗ Tấn cứ hay công kích bọn phản động, cho nên thường thường bị họ đặt điều nói xấu, phao đồn những tin không lành cho. Đau bệnh thần kinh là điều họ bịa đặt, cũng như có những lần phao tin trên báo, nói Lỗ Tấn bị cảnh sát đánh gãy hai răng cửa, bị bắt giam, bị giết hay là đã chết rồi.
2.    Câu này, lời của một vị Tống nho, thấy trong sách Tính lý, nguyên văn là: "Quỷ thần thị nhị khí chi lương năng." Nhị khí là âm và dương; lương năng cũng như nói bản năng. Nếu thật có quỷ thần, và quỷ thần, theo Tống nho nói, chỉ là bản năng của âm dương, thì nó là một sức hoạt động tự nhiên, chẳng có gì làm cho người ta mê tín. Ý tác giả muốn nói ông cụ Tư tuy đã đọc qua câu ấy rồi mà vẫn cứ mê tín, kiêng kỵ.

自序
我在年青時候也曾經做過許多夢,後來大半忘卻了,但自己也並不以為可惜。所謂回憶者,雖說可以使人歡欣,有時也不免使人寂寞,使精神的絲縷還牽著已逝的寂寞的時光,又有什麼意味呢,而我偏苦於不能全忘卻,這不能全忘的一部分,到現在便成了《吶喊》的來由。
Tôi lúc còn trai trẻ cũng từng có nhiều thứ chiêm bao, sau rồi quên bẵng hết già nửa, nhưng tự tôi cũng chẳng lấy làm đáng tiếc. Cái gọi bằng hồi ức, tuy có thể làm cho người ta vui thích, cũng có khi không khỏi làm cho người ta lạnh lùng. Bắt cái sợi tơ tinh thần cứ mắc míu lấy cái ánh sáng mặt trời lạnh lùng đã đi đứt, thì còn có thú vị gì đâu. Khổ cho tôi là không quên bẵng được hết thảy, cái một phần tôi không quên bẵng được ấy đến hôm nay thành ra cái nguồn của tập Nột hám[1] này.
我有四年多,曾經常常,——幾乎是每天,出入於質鋪和藥店裡,年紀可是忘卻了,總之是藥店的櫃臺正和我一樣高,質鋪的是比我高一倍,我從一倍高的櫃臺外送上衣服或首飾去,在侮蔑裡接了錢,再到一樣高的櫃臺上給我久病的父親去買藥。回家之後,又須忙別的事了,因為開方的醫生是最有名的,以此所用的藥引也奇特:冬天的蘆根,經霜三年的甘蔗,蟋蟀要原對的,結子的平地木,……多不是容易辦到的東西。然而我的父親終於日重一日的亡故了。
Hơn bốn năm, tôi đã từng thường thường - hầu như là hàng ngày, ra vào trong tiệm cầm đồ và tiệm thuốc. Bấy giờ tôi mấy tuổi tôi quên bẵng, tóm lại là cái quày của tiệm thuốc cao ngang tôi, của tiệm cầm đồ cao gấp đôi tôi. Tôi từ dưới cái quày cao gấp đôi đưa lên áo xống hoặc đồ nữ trang, nhận lấy đồng tiền trong sự khinh dể, rồi lại đến chỗ cái quày cao ngang mình mua thuốc cho cha tôi, người mang bệnh đã lâu năm. Sau khi về nhà, lại phải bận vì việc khác, bởi ông thầy thuốc cho đơn là thầy rất có danh tiếng, cho nên thứ dùng để dẫn thuốc[2] cũng rất lạ lùng: rễ cây lau mùa đông, mía chịu sương ba năm, con dế nguyên cả cặp, cây bình địa đã có trái... phần nhiều là thứ không dễ gì kiếm ra. Nhưng mà rốt lại bệnh cha tôi cứ một ngày càng nặng một ngày cho đến chết.
有谁从小康人家而坠入困顿的么,我以为在这途路中,大概可以看见世人的真面目;我要到N进K学堂去了,仿佛是想走异路,逃异地,去寻求别样的人们。我的母亲没有法,办了八元的川资,说是由我的自便;然而伊哭了,这正是情理中的事,因为那时读书应试是正路,所谓学洋务,社会上便以为是一种走投无路的人,只得将灵魂卖给鬼子,要加倍的奚落而且排斥的,而况伊又看不见自己的儿子了。然而我也顾不得这些事,终于到N去进了K学堂了,在这学堂里,我才知道世上还有所谓格致,算学,地理,历史,绘图和体操。生理学并不教,但我们却看到些木版的《全体新论》和《化学卫生论》之类了。我还记得先前的医生的议论和方药,和现在所知道的比较起来,便渐渐的悟得中医不过是一种有意的或无意的骗子,同时又很起了对于被骗的病人和他的家族的同情;而且从译出的历史上,又知道了日本维新是大半发端于西方医学的事实。
Có ai từ nhà khá giả mà sa sút đến cùng khốn không ư, tôi cho rằng ở trên con đường ấy đại khái có thể nhìn thấy bộ mặt thật của người đời. Tôi phải đến N xin vào trường học K[3], hình như là toan rẽ con đường khác, trốn đến xứ khác, đi tìm hạng người xa lạ nào khác. Mẹ tôi không có cách gì, chạy cho tám đồng bạc làm tiền ăn đường, bảo rằng tôi đi đâu tùy ý. Nhưng mà bà khóc, đó là sự tất nhiên, bởi vì lúc bấy giờ học để đi thi là đường chính, cái gọi bằng học tây, thì xã hội cho đó là kẻ hết đường đi rồi, chỉ phải đem linh hồn bán cho người ngoại quốc, sẽ chế nhạo càng hơn và còn hắt hủi nữa, huống nữa bà lại không thấy đứa con của mình. Nhưng mà tôi cũng không thể đoái hoài đến những việc ấy, rốt lại đi đến N và vào trường học K. ở trong trường học ấy, tôi mới biết trên đời còn có những cái gọi bằng cách trí, toán học, địa lý, lịch sử, họa đồ và thể thao. Người ta không dạy sinh lý học, có điều chúng tôi lại đã được xem những sách khắc bản gỗ như là Toàn thể tâu luận và Hóa học vệ sinh luận[4]. Tôi còn nhớ lời bàn luận và phương thang của ông thầy thuốc trước kia, đem so sánh với những cái hiện giờ mà tôi biết, dần dần vỡ ra rằng thầy thuốc ta chẳng qua là một thứ người lừa bịp vô tình hoặc cố ý, cùng một lúc lại hăng hái biểu đồng tình với những người ốm bị lừa bịp và người nhà của họ. Vả lại, trên lịch sử bằng bản dịch, tôi lại biết những cái sự thực trong cuộc duy tân Nhật Bản già nửa là bắt nguồn từ y học phương Tây.
因為這些幼稚的知識,後來便使我的學籍列在日本一個鄉間的醫學專門學校裡了。我的夢很美滿,預備卒業回來,救治像我父親似的被誤的病人的疾苦,戰爭時候便去當軍醫,一面又促進了國人對於維新的信仰。我已不知道教授微生物學的方法,現在又有了怎樣的進步了,總之那時是用了電影,來顯示微生物的形狀的,因此有時講義的一段落已完,而時間還沒有到,教師便映些風景或時事的畫片給學生看,以用去這多餘的光陰。其時正當日俄戰爭的時候,關於戰事的畫片自然也就比較的多了,我在這一個講堂中,便須常常隨喜我那同學們的拍手和喝采。有一回,我竟在畫片上忽然會見我久違的許多中國人了,一個綁在中間,許多站在左右,一樣是強壯的體格,而顯出麻木的神情。據解說,則綁著的是替俄國做了軍事上的偵探,正要被日軍砍下頭顱來示眾,而圍著的便是來賞鑒這示眾的盛舉的人們。
Cũng bởi cái trí thức non nớt ấy, khiến cho tôi về sau ghi tên trong sổ một trường học thuốc chuyên môn ở vùng nhà quê Nhật Bản. Tôi rất mãn nguyện, định bụng sau khi tốt nghiệp về nước sẽ chữa cho những người đau ốm bị lừa dối giống như cha tôi, lúc có chiến tranh thì đi làm thầy thuốc quân y, một mặt khác lại giục giã người nước đối với cuộc duy tân thêm lòng tin tưởng. Tôi không biết hiện giờ cái cách dạy về vi trùng học có tiến bộ thế nào không, chứ lúc bấy giờ thì dùng chiếu bóng để chiếu rõ hình trạng con vi trùng, vì vậy có khi một bài giảng nghĩa đã xong mà còn có thì giờ, giáo sư bèn chiếu những phim phong cảnh hoặc thời sự cho học sinh xem để khỏi phí những phút thừa ấy. Lúc đó nhằm lúc chiến tranh Nhật Nga, những phim về chiến sự tự nhiên cũng có khá nhiều, tôi ở trong lớp học ất, thường thường phải vào hùa với các bạn đồng học vỗ tay và reo lên. Có một lần, ở trong phim, tôi thình lình gặp mặt bao nhiêu người Trung Quốc mà tôi lâu ngày xa cách, một người bị trói ở giữa, bao nhiêu người đứng chung quanh, hết thảy đều mạnh mẽ mà phơi ra cái vẻ mặt tê điếng. Theo lời giải thì người bị trói là người làm trinh thánh quân sự cho nước Nga, đang bị quân Nhật sắp sửa chặt đầu thị chúng, còn những người vây chung quanh đó là những người đến giám thưởng cuộc thị chúng rầm rộ ấy.
這一學年沒有完畢,我已經到了東京了,因為從那一回以後,我便覺得醫學並非一件緊要事,凡是愚弱的國民,即使體格如何健全,如何茁壯,也只能做毫無意義的示眾的材料和看客,病死多少是不必以為不幸的。所以我們的第一要著,是在改變他們的精神,而善於改變精神的是,我那時以為當然要推文藝,於是想提倡文藝運動了。在東京的留學生很有學法政理化以至警察工業的,但沒有人治文學和美術;可是在冷淡的空氣中,也幸而尋到幾個同誌了,此外又邀集了必須的幾個人,商量之後,第一步當然是出雜誌,名目是取新的生命的意思,因為我們那時大抵帶些復古的傾向,所以只謂之《新生》。
Chưa mãn một năm học ấy, tôi đã đi đến Đông Kinh rồi, bởi vì từ lần ấy về sau, tôi thấy học thuốc cũng không phải là việc cần kíp: Hễ là thứ quốc dân hèn yếu, thì dù cho thân thể có mạnh mẽ đến đâu, vặm vỡ đến đâu, cũng chỉ có thể làm tài liệu và khán giả của cuộc thị chúng không có ý nghĩa gì hết, đau và chết đi bao nhiêu kẻ, cũng không cần cho đó là sự đáng buồn. Thế thì cái điều cần kíp thứ nhất của chúng ta là ở sự biến đổi tinh thần của họ, mà muốn biến đổi được tinh thần, bấy giờ tôi nghĩ không gì bằng dùng văn nghệ. Trong đám lưu học sinh ở Đông Kinh bấy giờ có nhiều người học pháp chánh, lý hóa, cả đến cảnh sát, công nghiệp nữa, nhưng không có ai chuyên trị về văn học và mỹ thuật ; tuy vậy, trong không khí lạnh nhạt, cũng may mà tìm được mấy kẻ đồng chí, ngoài ra còn rủ được mấy người cần phải có, sau khi bàn tính, bước thứ nhất là phải ra một cái tạp chí, tên tạp chí lấy ý nghĩa là "sự sống mới", mà vì chúng tôi lúc đó có mang ít nhiều cái khuynh hướng phục cổ, cho nên gọi là "Tân sinh".
《新生》的出版之期接近了,但最先就隱去了若干擔當文字的人,接著又逃走了資本,結果只剩下不名一錢的三個人。創始時候既己背時,失敗時候當然無可告語,而其後卻連這三個人也都為各自的運命所驅策,不能在一處縱談將來的好夢了,這就是我們的並未產生的《新生》的結局。
Gần đến ngày xuất bản tờ Tân sinh, thì trước tiên là mấy người chịu miệng viết bài lẩn đi đâu mất, rồi tiếp đến người chịu bỏ tiền cũng đi trốn, rốt chỉ còn lại ba anh chàng không có một đồng dính tay. Bắt đầu xây dựng đã trái mùa, thì khi nó thất bại phải bặm miệng mà chịu, vả lại sau đó cả đến ba anh chàng còn lại cũng đều bị số mạng của mỗi người dong duổi, không thể cùng ở một chỗ nói khoác lác với nhau về cái mộng đẹp tương lai, thế là cái kết cục tờ Tân sinh chưa hề ra đời của chúng tôi đó.
我感到未嘗經驗的無聊,是自此以後的事。我當初是不知其所以然的;後來想,凡有一人的主張,得了贊和,是促其前進的,得了反對,是促其奮鬥的,獨有叫喊於生人中,而生人並無反應,既非贊同,也無反對,如置身毫無邊際的荒原,無可措手的了,這是怎樣的悲哀呵,我於是以我所感到者為寂寞。
Từ đó về sau, tôi cảm thấy s buồn nản mà trước kia chưa từng trải qua. Lúc đầu tôi không biết cái cớ tại làm sao ; sau rồi nghĩ thấy: Hễ có người nào chủ trương cái gì, nếu được tán đồng, là giục cho tiến hành, nếu bị phản đối, là giục cho phấn đấu, chỉ có kêu gào giữa đám người sống, mà người sống tịnh không hề phản ứng, đã chẳng tán đồng cũng chẳng phản đối, dường như đặt mình giữa đồng không mông quạnh, không biết mó tay vào đâu, ấy là điều đáng buồn thương đến mức nào, thế rồi tôi lấy cái điều mình cảm thấy làm lạnh lùng.
這寂寞又一天一天的長大起來,如大毒蛇,纏住了我的靈魂了。
Cái lạnh lùng ấy lại càng ngày càng lớn phình mãi lên, như con rắn độc to, quấn lấy linh hồn tôi.
然而我雖然自有無端的悲哀,卻也並不憤懣,因為這經驗使我反省,看見自己了:就是我決不是一個振臂一呼應者雲集的英雄。
Nhưng mà tôi tuy có buồn thương bâng quơ, chứ cũng không hề tức tối, bởi vì cái kinh nghiệm ấy làm cho tôi xét lại mình, thấy mình là gì rồi: ấy là tôi quyết không phải một đấng anh hùng giang tay hô một tiếng mà mọi người đều phụ họa.
只是我自己的寂寞是不可不驅除的,因為這於我太痛苦。我於是用了種種法,來麻醉自己的靈魂,使我沉入於國民中,使我回到古代去,後來也親歷或旁觀過幾樣更寂寞更悲哀的事,都為我所不願追懷,甘心使他們和我的腦一同消滅在泥土裡的,但我的麻醉法卻也似乎已經奏了功,再沒有青年時候的慷慨激昂的意思了。
Có điều cái lạnh lùng của chính mình tôi thì không thể không xua đuổi nó đi được, bởi vì nó làm tôi đau khổ quá. Thế rồi tôi dùng mọi cách dể làm tê điếng linh hồn mình đi, khiến tôi ngập trong đám quốc dân, khiến tôi trở về với đời cổ, sau đó cũng từng chính mình nếm lấy hoặc đứng cạnh xem qua mấy việc càng lạnh lùng buồn thương hơn, mà tôi đều không muốn nhớ lại, đành cho chúng nó với trí khôn của tôi cùng tiêu diệt trong bùn đất một thể, song le cái cách làm tê điếng của tôi lại hình như đã kiến hiệu, tôi không còn có cái lòng dạ hăng hái và bốc đồng như hồi còn thanh niên.
S會館裏有三間屋,相傳是往昔曾在院子裏的槐樹上縊死過一個女人的,現在槐樹已經高不可攀了,而這屋還沒有人住;許多年,我便寓在這屋裡鈔古碑。客中少有人來,古碑中也遇不到什麼問題和主義,而我的生命卻居然暗暗的消去了,這也就是我惟一的願望。夏夜,蚊子多了,便搖著蒲扇坐在槐樹下,從密葉縫裡看那一點一點的青天,晚出的槐蠶又每每冰冷的落在頭頸上。
Trong hội quán S[5] có ba gian nhà, truyền rằng thuở xưa trên cây hòe trước sân từng có một người nữ thắt cổ chết, hiện giờ htì cây hòe đã cao quá với, mà cái nhà ấy vẫn không có ai ở ; tôi bèn trọ trong cái nhà ấy chép bia xưa đã bao nhiêu năm. Trong cảnh đùm đậu ít có người đến chơi, trong bia xưa cũng không gặp thấy vấn đề hay chủ nghĩa nào, mà sinh mạng của tôi thì lại cứ âm thầm tiêu hao đi, ấy cũng là điều mong muốn độc nhất của tôi. Đêm mùa hè, nhiều muỗi, bèn phẩy cái quạt lác ngồi dưới cây hòe, từ trong những kẽ lá dày xem một tý một tỵ trời xanh, những con sâu hòe ban đêm ra lại cứ từng con từng con như giá lạnh rơi trên cổ.
那時偶或來談的是一個老朋友金心異,將手提的大皮夾放在破桌上,脫下長衫,對面坐下了,因為怕狗,似乎心房還在怦怦的跳動。
Lúc đó, người năm khi mười họa đến gẫu chuyện là Kim Tâm Dị[6], một anh bạn cũ. Anh ta cầm cái cặp da to tướng đặt trên cái bàn xệ xạc xong, cởi áo dài ra, ngồi đối mặt nhau, mà vì sợ chó, hình như trong buồng tim anh còn đang đập mạnh.
你鈔了這些有什麼用?有一夜,他翻著我那古碑的鈔本,發了研究的質問了。"Anh chép những cái này có dùng làm gì không?". Một đêm nọ, anh ta giở từng cái bổn chép bia xưa của tôi, phát ra câu hỏi như dò xét ấy.
沒有什麼用。” "Chẳng có dùng làm gì cả."
那麼,你鈔他是什麼意思呢?” "Thế thì, anh chép nó có ý gì?"
沒有什麼意思。” "Chẳng có ý gì cả."
我想,你可以做點文章……” "Tôi tưởng, anh nên viết cái gì chứ..."
我懂得他的意思了,他們正辦《新青年》,然而那時仿佛不特沒有人來贊同,並且也還沒有人來反對,我想,他們許是感到寂寞了,但是說:Tôi biết ý anh ta rồi. Bọn họ đang làm báo Tân thanh niên[7], mà bấy giờ hình như không có ai tán đồng, cũng không có ai phản đối, tôi tưởng, bọn họ có lẽ cũng cảm thấy lạnh lùng chăng, nhưng tôi nói:
假如一間鐵屋子,是絕無窗戶而萬難破毀的,裡面有許多熟睡的人們,不久都要悶死了,然而是從昏睡入死滅,並不感到就死的悲哀。現在你大嚷起來,驚起了較為清醒的幾個人,使這不幸的少數者來受無可挽救的臨終的苦楚,你倒以為對得起他們麼?
"Giá như có một căn nhà bằng sắt, không có cửa ngõ nào hết mà dứt không có thể phá tung được, trong đó có bọn người đang ngủ ngon, không bao lâu họ sẽ chết ngạt, nhưng là từ ngủ mê đến chết rấp, không hề cảm thấy sự buồn thương của cái chết. Nay anh la to lên, làm thức dậy mấy kẻ còn khá tỉnh ngủ, khiến một ít người xấu số ấy phải chịu đau khổ lúc gần chết không thể cứu được, mà anh lại cho thế là xử tốt với họ ư?".
然而幾個人既然起來,你不能說決沒有毀壞這鐵屋的希望。”  "Nhưng mà đã có mấy người tỉnh dậy, anh không thể cầm chắc rằng không có hy vọng phá tung được cái nhà bằng sắt ấy."
是的,我雖然自有我的確信,然而說到希望,卻是不能抹殺的,因為希望是在於將來,決不能以我之必無的證明,來折服了他之所謂可有,於是我終於答應他也做文章了,這便是最初的一篇《狂人日記》。從此以後,便一發而不可收,每寫些小說模樣的文章,以敷衍朋友們的囑托,積久了就有了十餘篇。
Phải đấy, tôi tuy có sự tin chắc của tôi, nhưng nói đến hy vọng, thì lại không thể sổ toẹt được, bởi vì hy vọng về tương lai, quyết không thể lấy cái điều tôi chứng minh rằng chắc không có để mà bác bỏ cái điều anh ta cho rằng có thể có, thế rồi tôi nhận lời anh ta và viết bài, tức là cái truyện ngắn Nhật ký người điên đầu tay[8]. Sau đó, đã buông ra không thể cầm lại, thường hay viết những bài có vẻ như tiểu thuyết, gọi là có để đáp lại sự đòi hỏi của bạn bè, lâu ngày dồn lại có được hơn mười bài.
在我自己,本以為現在是已經並非一個切迫而不能已於言的人了,但或者也還未能忘懷於當日自己的寂寞的悲哀罷,所以有時候仍不免吶喊幾聲,聊以慰藉那在寂寞裡奔馳的猛士,使他不憚於前驅。至於我的喊聲是勇猛或是悲哀,是可憎或是可笑,那倒是不暇顧及的;但既然是吶喊,則當然須聽將令的了,所以我往往不恤用了曲筆,在《藥》的瑜兒的墳上平空添上一個花環,在《明天》裡也不敘單四嫂子竟沒有做到看見兒子的夢,因為那時的主將是不主張消極的。至於自己,卻也並不願將自以為苦的寂寞,再來傳染給也如我那年青時候似的正做著好夢的青年。
Về phần riêng tôi hiện nay, vẫn tự thấy rằng mình đã không phải là người có điều gì bách thiết cần phải nói ra mới được, nhưng hoặc giả còn chưa quên cái sự buồn thương lạnh lùng của mình ngày nọ, cho nên có khi không khỏi la ó lên mấy tiếng, để yên ủi những kẻ mãnh sĩ đang chạy vạy trong sự lạnh lùng, cho họ không ngại tiến lên trước. Còn như tiếng la của tôi là mạnh dạn hoặc buồn thương, là đáng ghét hoặc đáng buồn cười, đó lại là điều không rồi đâu nghĩ đến. Song đã la ó lên, thì vẫn phải nghe theo tướng lệnh, cho nên tôi có khi không quản dùng lệch ngòi bút, như ở truyện ngắn Thuốc, trên mả Dunhi thình lình thêm một vòng hoa, trong truyện ngắn Ngày mai cũng không kể chuyện mụ Tư Đơn rốt lại không chiêm bao thấy đứa con của mụ, bởi vì vị chủ tướng bấy giờ không chủ trương tiêu cực. Đến như chính mình tôi, lại cũng không muốn đem cái lạnh lùng tự lấy làm khổ truyền nhiễm cho lớp thanh niên đang ở trong mộng đẹp cũng như tôi hồi còn tuổi xanh.
這樣說來,我的小說和藝術的距離之遠,也就可想而知了,然而到今日還能蒙著小說的名,甚而至於且有成集的機會,無論如何總不能不說是一件僥幸的事,但僥幸雖使我不安於心,而懸揣人間暫時還有讀者,則究竟也仍然是高興的。
Theo như đã nói đó, thì đủ biết tiểu thuyết của tôi còn cách xa với nghệ thuật lắm, thế mà cho đến nay vẫn còn mang được cái danh tiểu thuyết, đến nỗi còn có dịp làm thành tập, không luận thế nào, không thể không kể đó là một điều may mắn, sự may mắn ấy tuy làm cho tôi không yên tâm, song tưởng trong đời tạm thời còn có người đọc, thì rốt lại tôi cũng vẫn thấy thỏa lòng.
所以我竟將我的短篇小說結集起來,而且付印了,又因為上面所說的緣由,便稱之為《吶喊》。Bởi vậy tôi trót đem những truyện ngắn của tôi dồn lại thành tập, vả in ra nữa, lại bởi cớ nói trên, đặt tên là Nột hám.
一九二二年十二月三日,魯迅記於北京。Lỗ Tấn viết ở Bắc Kinh 3-12-1922
Chú thích cuối trang
1.    Nột hám: Nghĩa đen là hò reo, chỉ tiếng hò reo trong hát tuồng. Trong hát tuồng, có những người đóng vai quân lính, cầm cờ đi theo ông tướng, gọi là "chạy hiệu", thường khi rập nhau phát ra tiếng, hoặc là "ó lên", hoặc "huợi huợi", tức là hò reo đó. Tại sao dùng hai chữ này, có cắt nghĩa ở cuối bài tựa.
2.    Dẫn thuốc: nguyên văn là "dược dẫn". Thầy lang bốc thuốc, ngoài một phương thang, thường khi có một vài vị phụ, như sinh cương, đại táo, sắc chung với thuốc mà uống, nói rằng để dẫn thuốc đi đến chỗ nó phải đến. Cũng có khi không sắc chung với thuốc mà để ngoài, như một thứ thuốc gì đó, thầy lang ghi vào đơn rằng: "Dụng diêm thang tống hạ", nghĩa là uống với nước muối đun sôi, đó cũng là một cách để dẫn thuốc.
3.    N là Nam Kinh ; trường học K là Giang Nam Thủy sư học đường.
4.    Đây là hai thứ sách dịch chữ Tây ra chữ Trung Quốc nói về sinh lý học, xuất bản hồi cuối triều Mãn Thanh. Toàn thể tân luận 1 cuốn, ra năm 1851 ; Hóa vệ sinh luận 4 cuốn, ra năm 1879.
5.    Hội quán S: Tức là hội quán Thiệu Hưng. Thiệu Hưng, người Trung Quốc viết bằng mẫu tự La Mã là Shaoshing, thành ra hội quán S. Xem thêm lời chua số 2 bào Ối tình ôi ở cuối sách.
6.    Kim Tâm Dị: tức là Tiền Huyền Đồng, một người biên tập Tân thanh niên lúc bấy giờ. Sau khi Tân thanh niên đề xướng cách mạng văn hóa, Lâm Thư có viết một cái truyện ngắn đề là Kinh sinh, để chửi những người đề xướng đó, trong đó có một nhân vật là Kim Tâm Dị, chỉ bóng Tiều Huyền Đồng, tác giả dùng cái tên đó.
7.    Tân thanh niên: Tên một tạp chí ra trước sau vận động Ngũ Tứ, lãnh đạo cuộc cách mạng văn hóa trong thời ấy. Ra hàng tháng, số 1 ra tháng 9 năm 1915, do Trần Độc Tú chủ biên, đến tháng 7 năm 1922 đình bản. Sau đó, tháng 6 năm 1923, Đảng cộng sản Trung Quốc lấy làm báo cơ quan của Đảng, ra ba tháng một kỳ, do Cù Thu Bạch chủ biên, được 4 số thì đình bản. Lại đến tháng 4 năm 1925 ra mỗi tháng một kỳ, được 5 số đình bản.
8.    Nhật ký người điên đã có dịch đăng trong Tuyển tập tiểu thuyết Lỗ Tấn, tập I.<br? Chua thêm: Lỗ Tấn có hai tập truyện ngắn là Nột hám và Bàng hoàng. Mà chỉ có một tập Nột hám có tựa ở đầu sách, tức lại bài "Tựa lấy" này.

http://vi.wikisource.org/wiki/Tuy%E1%BB%83n_t%E1%BA%ADp_ti%E1%BB%83u_thuy%E1%BA%BFt_L%E1%BB%97_T%E1%BA%A5n/Ng%C3%A0y_mai

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bài đăng phổ biến