短篇小说:玛丽的鸡汤 Canh gà của Mary


短篇小说:玛丽的鸡汤 Canh gà của Mary

太阳快要落山了,可天依旧灰濛濛。枯萎的牧草(Kūwěi de mùcǎo)被风压倒在一侧,露出了前面不远处一个红色破旧的小房子。炊(Chuī)烟从深红色的小烟囱袅袅(Niǎoniǎo)升起,屋内的玻璃窗上镀上了一层薄薄的蒸汽。炉子上的小锅咕噜咕噜地响着,鸡汤的香气弥漫(Mímàn)了整个房间,在炉火边打瞌睡(Kēshuì)的艾比用力地吸了吸鼻子。远处山谷(Shāngǔ)的一阵狼嚎(Háo)打破了屋内宁静的气氛,艾比突然狂吠(Kuángfèi)起来。
Mặt trời sắp xuống núi rồi, mà trời vẫn mịt mùng u ám như cũ. Những ngọn cỏ khô úa bị gió thổi bạt sang một bên,phía trước không xa là một căn nhà tồi tàn. Khói bếp bốc cuốn lên từ lỗ thông khói màu đỏ thẫm be bé. Tấm cửa sổ thủy tinh bị phủ một lớp hơi nước mong mỏng.Chiếc nồi nhỏ trên bếp sôi sung sục, mùi canh gà tỏa khắp cả căn phòng, con chó Abby đang ngái ngủ bên bếp lửa ngáp mạnh một hơi. Những tiếng hú của lũ sói dưới thung lung phá tan không khí yên tĩnh trong phòng, Abby đột nhiên sủa loạn lên.
同样在打瞌睡的玛丽被艾比惊醒后急忙跑向了厨房,揭(Jiē)开锅盖尝了尝鲜美的鸡汤之后才心满意足地熄(Xī)灭了炉火,顺势丢出一小块骨头给艾比。玛丽用手抹掉(Mǒ diào)窗上的水汽,她望着渐黑的窗外不由得担心起来,这么晚了,布莱恩怎么还没回来?每次提到到布莱恩,玛丽的嘴角都是向上扬起,布莱恩简直就是玛丽的骄傲!
Mary cũng đang ngái ngủ sau khi bị Abby làm choàng tỉnh liền vội vàng chạy xuống bếp, mở nắp nồi nếm thử món canh gà tươi ngon rồi vừa ý dập bếp, thuận tay vứt cho Abby một cục xương nhỏ. Mary dùng tay lau sạch hơi nước trên cửa sổ, cô nhìn ra ngoài cửa sổ đang dần tối mà không khỏi lo lắng, đã muộn vậy rồi mà Bryan sao vẫn chưa về? Mỗi lần nói đến Bryan, khóe môi của Mary đều nhích lên, đơn giản Bryan là niềm tự hào của Mary.
布莱恩是一个勤劳的小伙子,自从玛丽的父母去世后,是布莱恩帮她(chēng)起了整个牧场。虽然他们不太富裕(Yù),但总的来说还是过得去。现在冬天来了,他们的生活就有一些拮据(Jiéjū)了,不过,布莱恩是个聪明人;他会用玛丽编织好的羊毛衣拿到城镇的集市,去换一些过冬的用品。每次布莱恩从镇里回来他都会为玛丽买一些新奇的小玩意,玛丽为了(Kào)他所以特意(Áo)了鸡汤给他,单纯的玛丽深信她和布莱恩会过上好日子。
Bryan là một anh chàng cần cù, từ khi bố mẹ Mary qua đời, chính là Bryan giúp cô giữ cả đồng cỏ.  Tuy rằng họ chẳng dư dả, nhưng tóm lại vẫn có thể gắng gượng được. Giờ đã đến mùa đông, cuộc sống của họ gặp chút khó khăn, nhưng Bryan là người thông minh, anh dùng áo len do Mary đan đem vào chợ vải trong thành, đổi ít đồ dùng qua mùa đông. Mỗi lần Bryan từ chợ về đều mua cho Mary mấy món đồ mới lạ, Mary để đền đáp sự vất vả của anh mà đã đặc biệt ninh canh gà cho anh, Mary ngây thơ tin chắc cô và Bryan sẽ có một ngày tuyệt vời.
彻底(Chèdǐ)黑下来了,窗外狼群的嚎叫声由远到近,逐渐清晰(Qīngxī)起来。最近一群不知来头的野狼闯进(Chuǎng jìn)了山谷,虽然它们没有袭击牲畜(Shēngchù),可是牧民们依然担心狼群会在无法觅食(Mì shí)的冬天偷袭牧场。想到这,玛丽有些坐立不安,她披(Pī)上外套提着灯去了羊圈(Quān)。她把羊圈仔仔细细地检查了一遍,在她确保万无一失后,她才上了门闩(Shuān)。正在她转身时,却与身后的一个黑影撞了个正著。玛丽刚想放声尖(Jiān)不料被一双大手摀(Wǔ)住了嘴巴。嘘,是我!”“你吓到我了,布莱恩!玛丽轻声责怪道你怎么一个人出来了,这么晚多危险啊!我们快点回屋吧!布莱恩体贴(Tǐtiē)地说。
Trời đã tối hẳn rồi, tiếng hú của bầy chó sói từ xa tới gần, từ từ rõ ràng. Gần đây có bầy chó hoang không biết từ đâu tới chạy đến thung lung,  tuy chúng không săn trộm mất vật nuôi, nhưng dân trên đồng cỏ vẫn lo lắng bầy sói khi mùa đông không kiếm ăn được sẽ vào săn trộm. Nghĩ đến đây, Mary đứng ngồi không yên, cô khoác chiếc áo, cầm đèn ra ngoài chuồng cừu. Cô cẩn thận đếm chuồng cừu một lượt, khi đã chắc chắn không thiếu một con, cô mới cài then cửa. Đúng khi cô quay người lại, đã đụng phải một bóng đen sau người. Mary đang định hét to lên, không ngờ bị một đôi tay to bịp chặt lấy miệng. “Này, là anh đây!” “Anh làm em sợ đấy, Bryan!” Mary nhẹ giọng trách anh. “Sao em lại ra đây một mình, muộn thế này nguy hiểm lắm! Chúng ta mau vào trong nhà đi!”” Bryan ân cần nói.
回到屋里,玛丽关上了吱吱作响的木门。寒风顺着门缝(Liū)进屋里打了个旋(xuán),吹灭了炉壁里那微弱火苗(Miáo),玛丽不禁打了一个寒(chàn)。玛丽为布莱恩了碗鸡汤并摆放在家里唯一的一张老式小木桌上,布莱恩在一旁一边整理著货物一边想着城里那位可爱的姑娘。
Vào đến phòng, Mary đóng chiếc cửa gỗ kẽo kẹt lại. Gió lạnh theo khe cửa  lọt vào trong phòng cuốn một vòng, thổi tắt những đốm lửa yếu ớt bên cạnh bếp, Mary không tránh khỏi rung mình một cái. Mary múc cho Bryan một bát canh gà và đặt trên chiếc bàn kiểu dáng cũ kỹ duy nhất trong nhà, Bryan vừa dọn dẹp đồ đạc một bên, vừa nghĩ đến cô gái đáng yêu trong thành phố.
布莱恩,你瞧!我为你准备了鲜美的鸡汤,(chèn)它还热快喝了它!布莱恩放下了手中的货物,撩(Liāo)开挡在前额金色的碎发,露出深蓝色的双眸(Móu)。他朝玛丽愉快地喊道谢谢你,亲爱的!快来看看我给你带回了什么!
“Bryan, anh xem! Em đã nấu cho anh canh gà thơm ngon đây này, nhân lúc còn nóng mau ăn đi!” Bryan đặt đồ trong tay xuống,kéo những sợi tóc rụng còn chắn trước chán ra, để lộ đôi mắt màu xanh đậm. Anh hướng về Mary vui vẻ cất tiếng: “Cảm ơn em yêu, mau đến xem anh mang về cho em gì nào!”
昏暗的烛光下,玛丽抚摸(Fǔmō)著那精美的丝绸长裙,兴奋地把它往身上比划。望着笑容灿烂的玛丽,布莱恩有一些愧疚(Kuìjiù);他没办法告诉玛丽住在城里的凯特林笑容比她更迷人。他环顾了一下四周:那些上了年纪家俱狭小的客厅里互相拥挤、脚下木制的地板吱吱作响、卧室内一张用桌子拼(Pīn)起来的小床。然而,他脑海里都是凯特琳家里豪华的样子:水晶吊(diào)灯、漂亮的大理石台阶、精美的家俱……这一切都形成鲜明对比,一丝厌恶(Yànwù)从他的眼中闪过。
Dưới ánh đèn leo lét, Mary vuốt ve chiếc váy lụa dài, phấn khích ướm lên người. Thấy vẻ mặt cười rạng rỡ của Mary, Bryan chẳng thể nói với cô về Kaitlyn ở trong thành phố còn có nụ cười mê hoặc hơn. Anh nhìn quanh một cái, những đồ đạc cũ kỹ chật ních trong căn phòng khách chật hẹp,  tấm sàn gỗ dưới chân kêu kẽo kẹt, một chiếc giường nhỏ dùng bàn dựng lên trong phòng ngủ. Nhưng trong đầu anh đều là vẻ ngoài lộng lẫy trong nhà Kaitlyn: đèn chum lấp lánh, bậc thang đá cẩm thạch, đồ đạc tinh xảo,… tất cả ddeeeuf tạo lên một sự đối lập rõ rang, một sự chán gét sang lên từ trong mắt anh.
布莱恩坐在餐桌旁眉头紧锁地沉思著,他面前的鸡汤已经凉了,表层的油开始凝固(Nínggù)。突然他做出了重大决定一般对玛丽说到:亲爱的,我有一件十分重要的事情想与你商量一下!玛丽闻声走过来,最近有人出高价去捉(Zhuō)那群闯进山谷的狼,这是一个好机会,我和附近的牛仔们已经好了决定,明天一早我们就出发。如果我可以捉到它们的话,我们的好日子就来临了。” “天啊!布莱恩,我劝你最好不要去冒这个险玛丽尖叫着说。我们都设好了陷阱(Xiànjǐng)、做好了诱饵(Yòu'ěr),就等着它们上钩了!”“可是……”未等玛丽开口,布莱恩已经离开了餐桌。玛丽叹了口气,收起了布莱恩没喝的鸡汤。
Bryan ngồi bên bàn ăn, trau mày trầm tư, can gà trước mặt đã nguội ngắt, lớp mỡ trên mặt bắt đầu đông lại. Đột nhiên anh như thể ra một quyết định quan trọng, nói với Mary: “Em yêu, anh có chuyện này rất quan trọng muốn bàn với em một chút!” Mary nghe tiếng đi lại, “Gần đây có người trả giá cao để bắt bầy sói chạy vào thung lung, đây là một cơ hội tốt, anh với đám chăn gia súc đã quyết định xong xuôi, sáng sớm ngày mai bọn anh sẽ xuất phát. Nếu như bắt được chúng, thì những ngày tháng tươi đẹp của chúng ta sẽ đến rồi.” “Trời ơi! Bryan, em khuyên anh tốt nhất đừng mạo hiểm!” Mary ré lên. “Bọn anh đã đặt bẫy xong xuôi, làm cả mồi, đợi chúng mắc bẫy thôi!” “Nhưng…” Không đợi Mảy mở miệng, Bryan đã rời bàn ăn. Mary thở dài, thu lại bát canh Bryan không ăn.
第二天一早,布莱恩就在餐桌旁擦拭(Cāshì)生锈了的猎枪。玛丽端上那碗热好的鸡汤,可是布莱恩依旧没有理会碗里的美味,他拿好猎枪便直奔马厩(Jiù)临行前,身材高大的布莱恩将瘦小的玛丽揽(Lǎn)在胸前,他轻轻揉(Róu)着她棕色的长发,并在她额头上留下一个吻。玛丽目送著布莱恩直到他的身影消失在边际才恋恋不舍地回到屋里。傍晚玛丽准备好饭菜等著布莱恩回来,她实在是太困了就不知不觉睡着了。夜里,(É)毛般的雪花着呼啸(Hūxiào)的狂风纷纷落下,包裹住了整个牧场。
Sáng sớm hôm sau, Bryan lau chiếc súng săn đã rỉ sét. Mary đặt lên bát canh gà đã hâm nóng, nhưng Bryan vẫn không chú ý đến hương vị thơm ngon trong bán, Anh cầm súng săn đi thẳng ra chuồng ngựa. Trước lúc đi, Bryan cao lớn ghì Mary nhỏ bé vào trước ngực, nhẹ nhàng vuốt mái tóc dài màu nâu của cô, rồi hôn một cái lên chán. Mary  dõi theo Bryan đến khi hình bóng anh mất hút mới lưu luyến không dời quay lại phòng. Chiều tối, Mary chuẩn bị cơm canh ngon lành đợi Bryan về, đến khi buồn ngủ lắm rồi mới ngủ thiếp đi. Đến đêm, những bông tuyết như lông ngỗng cùng với những cơn gió điên cuồng thổi rít phất phới rớt xuống, phủ kín cả đồng cỏ.
清晨,牛仔们便被仓促(Cāngcù)的敲门声吵醒,玛丽无助地站在门外双眼红肿,她单薄的身躯在寒风中瑟瑟(sè)发抖。布莱恩一夜未归,她有一种不祥的预感,她请求牛仔们帮她寻找布莱恩。牛仔们先是一愣,接着他们答应了玛丽的请求。可是这一夜的大雪隐藏(Yǐncáng)了所有的踪迹,牛仔们除了在牧场附近找到一把猎枪,便一无所获。玛丽咬紧了毫无血色的嘴唇,强忍着泪,谢过了那几位热心的牛仔。玛丽憔悴(Qiáocuì)的脸上充满了绝望,牛仔们实在不忍心告诉她其实布莱恩根本就没有找过他们,而且他们也从未听说有人要去捕获(Bǔhuò)那群狼。
Tinh mơ, những người chăn gia súc đã bị tiếng ồn gõ cửa gấp gáp đánh thức, Mary vô vọng đứng ngoài cửa, hai mắt đỏ hoe, tấm thân gầy gò run lên cầm cập trong gió lạnh. Bryan một đêm không về, cô có dự cảm chẳng lành, cô cầu xin đám dân chăn gia súc giúp cô tìm kiếm Bryan. Đám chăn gia súc thấy vậy liền đồng ý với cô. Nhưng trận tuyết lớn đêm qua đã xóa hết mọi dấu vết. Đám chăn gia súc tìm thấy một khẩu súng săn trên đồng cỏ, ngoài ra không thấy gì khác. Mary mím chặt bờ môi không còn chút máu, cố không khóc, cảm ơn những người chăn gia súc nhiệt tình. Gương mặt héo hon của Mary chất chứa nỗi tuyệt vọng, đám chăn gia súc không đành lòng nói với cô thực ra Bryan không hề tìm bọn họ, mà họ cũng chẳng nghe thấy ai nói có người muốn bắt lũ sói ấy.
天真的玛丽以为布莱恩死了,就在那个大雪纷飞的夜里。
Mary ngây thơ thì cho rằng Bryan đã chết, chính là trong cái đêm tuyết lớn phất phới bay ấy.

责任编辑:林芳宇

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bài đăng phổ biến