Thư pháp - hình thức văn tự (sưu tầm và tổng hợp)

Loại văn tự
Niên đại
Phân loại
Đặc điểm
Theo truyền thuyết, vua Phục Hi nhân việc nghĩ ra bát quái mà sáng tạo "long thư", vua Thần Nông xem lúa mà chế ra "tuệ thư",Hoàng Đế nhìn mây mà đặt ra "vân thư", vua Nghiêu được rùa thần mà làm ra "qui thư", Đại Vũ đúc chín đỉnh mà tạo ra "chung đỉnh văn". Thế nhưng đó chỉ là huyền thoại và không còn dấu tích gì để lại
Giáp cốt văn甲骨文
khoảng 1200 tcn
Giáp cốt 甲骨 là nói gọn của quy giáp 龜甲 (mai rùa và yếm rùa) và thú cốt 獸骨 (xương thú). Chữ này do người đời nhà Ân (1766 - 1123 TCN) khắc để dùng vào việc bói toán.
Kim văn 金文
Trước thời Tần (thống nhất Trung Hoa năm 221 TCN)
kiểu chữ được khắc trên đỉnh vạc và các tế khí 祭器 (dụng cụ cúng tế) bằng đồng, là hệ văn tự được tìm thấy với niên đại trước đời Tần. Sau đời Tần, chữ viết được tìm thấy là chữ khắc trên bia đá, nên gọi là "bi văn".
Đại triện大篆
lưu hành thời Tây Chu (khoảng thế kỉ XI đến năm 771 trc.CN), phát triển từ Kim văn
Lựu Văn籀文:
Đời Chu Tuyên Vương (828-782 trc.CN), Kim văn được giản hóa thành Lựu Văn, vì trong Sử Lựu Thiên史籀篇 có ghi chép 223 chữ loại này, nên gọi là Lựu Văn. Tương truyền Lựu văn là do Thái Sử Lựu sáng tạo, cũng có người cho rằng Lựu có nghĩa là “thông độc” (dễ đọc).
Thạch Cổ Văn石鼓文
Thạch cổ là chiếc trống đá. Thạch Cổ Văn là văn khắc trên trống đá. Đời Đường có tìm được những chiếc trống đá khắc chữ, cho rằng Thạch Cổ Văn có vào đời Chu, cũng do Thái Sử Lựu biên soạn. Ngày nay giới khảo cổ cho rằng những chiếc trống đá này được làm vào đời Tần Mục Công.
Thạch Cổ Văn là loại chữ ở khoảng sau kim văn và trước tiểu triện, nhưng lại có nhiều nét khác với đại triện tiên Tần, nên có người cho rằng Thạch Cổ Văn là loại chữ ở giữa đại triện và tiểu triện. Nhưng cũng có người nhận định rằng Lựu Văn và Thạch Cổ Văn thuộc về cùng một loại chữ, đều có thể tính là đại triện.
Thạch Cổ Văn có bút pháp vuông vắn hài hòa, được nhiều người luyện thư pháp yêu thích.
Tiểu triện小篆
được nhà Tần thống nhất sử dụng sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc (221 trc.CN), là bước phát triển từ chữ đại triện, được dùng đến khoảng đời Tây Hán.
Do chữ triện cách viết phức tạp, hình chữ kì lạ, có thể tùy ý thêm nét cong, nên người ta thường dùng để khắc ấn triện, đề phòng giả mạo (vì thế mà được gọi là chữ triện).
Năm 221 trc.CN, Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc. Sau đó, ông đưa ra các chính sách “thư đồng văn, xa đồng quỹ″书同文,车同轨 (sách viết cùng loại chữ, xe có cùng cỡ trục), tức là thống nhất văn tự, thống nhất đơn vị đo lường. Thừa tướng Lý Tư phụ trách việc thống nhất văn tự, đưa chữ tiểu triện vào sử dụng trong các văn bản chính thức. Chữ tiểu triện được xây dựng dựa trên cơ sở chữ triện của nước Tần, tiến hành giản hóa, loại bỏ những chữ dị thể của sáu nước.
Lệ thư 隶书
này rất phổ biến giữa thế kỷ 3 và 2 TCN.
Chữ Lệ có thể chia làm 2 thời kì: Tần Lệ và Hán Lệ. Tần Lệ còn mang nhiều đặc điểm của chữ triện. còn Hán Lệ đã hoàn toàn thoát thai khỏi triện thư.
Lệ thư là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển chữ Hán. Nó đánh dấu việc chữ Hán hoàn toàn thoát khỏi hệ thống tượng hình, trở thành văn tự thực sự với sự ước lệ cao trong hình chữ.
Nhiều người cho rằng, chữ Lệ xuất hiện cuối đời Tần. Khi Tần Thủy Hoàng thống nhất văn tự, sử dụng chữ tiểu triện, nhưng vì tiểu triện quá phức tạp, khó viết nên lệnh cho người giản hóa chữ triện, thành chữ lệ. Tương truyền người sáng tạo ra chữ lệ là Trình Mạo, khi ông bị giam trong tù, thấy ngục tốt viết chữ triện rất vất vả, bèn giản hóa chữ triện đi. “Lệ” nghĩa là tù nhân.
Tuy nhiên, theo kết quả khảo cổ gần đây, thì chữ Lệ xuất hiện từ thời chiến quốc. Người ta tìm được những thẻ tre chép chữ Lệ ở nước Tần thời Chiến quốc chứ không phải sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất. Vì vậy, giới sử học nhận định rằng, khi Tần Thủy Hoàng tiến hành thống nhất văn tự, người ta đã sử dụng song song chữ Lệ và tiểu triện.
Khải thư楷书 hay Chân thư
cải biên từ chữ lệ và bắt đầu phổ biến vào thế kỷ III cn.
Chữ Khải ra đời vào khoảng đời Hán, hoàn thiện vào đời Ngụy Tấn, phát triển rực rỡ vào đời Đường. Chữ Khải thời kì đầu còn có chút xu hướng của chữ Lệ, nhưng cũng rất ít.
là bước phát triển hoàn thiện nhất của chữ Hán. Chữ Khải lưu truyền đến ngày nay, sau chữ Khải không còn thể chữ nào tiến bộ hơn nữa. Chữ Khải kết cấu chặt chẽ, nét bút chỉnh tề, lại đơn giản dễ viết, vô cùng quy phạm. Phần lớn chữ in ngày nay đều thuộc về chữ Khải
Hành thư 行书
Cổ nhân cho rằng Hành thư ra đời vào cuối đời Đông Hán. Theo khảo cứu ngày nay, Hành thư ra đời gần như song song với chữ Khải.
là chữ khải viết nhanh, nhưng không đến mức như chữ Thảo. Hành thư viết tự do, nhanh chóng hơn khải, nhưng không đến mức quá phóng túng như Thảo, nên Hành thư là loại chữ được sử dụng phổ biến nhất trong quá trình viết tay.
Do Khải thư là thể chữ rất mẫu mực chỉnh tề, tốc độ viết chậm, nên chỉ thường được dùng trong công văn chính thức. Người ta viết thư từ thường viết một cách thoải mái, không quá trang trọng, nên dùng chữ Hành.
Thảo thư 草書
Chữ thảo được hình thành vào khoảng đời Hán cho tới trước đời Tấn và có nguồn gốc từ lối chữ lệ thông dụng trong triều Hán. Chữ thảo được thành hình khi người ta viết chữ lệ theo kiểu tốc ký một lối "ẩu" hơn, "tháu" hơn nhưng nhanh và tiện lợi hơn.
Thảo thư trong thời Hán vẫn còn mang nhiều dấu nét của lệ thư và được gọi là "chương thảo" (章草), với chữ "chương" có nghĩa là "mạch lạc, trật tự" vì so với kiểu kim thảo (今草) của thời Ngụy-Tấn sau đó thì chương thảo vẫn còn trông rõ ràng và dễ đọc hơn hẳn. Đến thời Tam Quốc và đời Tân, chương thảo bỏ dần các dấu tích của chữ lệ, lược bớt và hòa lẫn nhiều nét, sử dụng nhiều nét "tháu" hơn và trở thành kim thảo (今草). Đến thời nhà Đường, chữ thảo lại phát triển thêm một bước với lối viết càng ngày càng phóng khoáng và mãnh liệt hơn và trở thành cuồng thảo (狂草) - kiểu viết này gần như không thể đọc được và trên thực tế cuồng thảo gần như chỉ được dùng như là một kiểu viết mang tính nghệ thuật cao
Ngoài cách phân loại chương, kim và cuồng thảo theo lịch sử hình thành, chữ thảo có thể được phân thành: 1)độc thảo (獨草) với các chữ được viết tách bạch rõ ràng và 2)liên miên (連綿) với nét chữ này nối liền với nét chữ kế tiếp thành một chuỗi dài.
Tiểu thảo vẫn viết tách bạch từng chữ, còn  Đại thảo - Cuồng thảo thì nét bút nối liền

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bài đăng phổ biến